QĐND Online - Sáng 18-6, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã tổ chức Hội nghị tổng kết Chương trình “Hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi” (gọi tắt là Chương trình Nông thôn miền núi).
Kể từ năm 1998 đến nay, sau 3 giai đoạn triển khai Chương trình, (1998-2002, 2004-2010 và 2011-2015) đã có tổng số 845 dự án được triển khai thực hiện trên cả nước, với tổng kinh phí hơn 2.745 tỷ đồng. Những dự án được thực hiện thành công, góp phần không nhỏ vào mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng nông sản của các địa phương, góp phần xóa đói, giảm nghèo cho cộng đồng dân cư ở nông thôn, miền núi - vùng có điều kiện tự nhiên, xã hội khó khăn của đất nước.
Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân cho biết, sau một thời gian, hiệu quả của chương trình đã được phát huy, các địa phương đã đưa được KH&CN vào sản xuất, nâng cao đời sống người dân. Thủ tướng đã đồng ý để chương trình tiếp tục triển khai với phương thức mới là lồng ghép với chương trình hỗ trợ phát triển của Ủy ban Dân tộc. Dù không còn được tồn tại độc lập nhưng Chương trình vẫn được duy trì, phát huy hiệu quả với sự phát triển kinh tế xã hội của các địa phương.
 |
Toàn cảnh hội nghị. Ảnh: TTXVN |
Chương trình với mục đích xây dựng các mô hình ứng dụng và chuyển giao KH&CN tiên tiến phù hợp vào các khâu sản xuất, chế biến, bảo quản tại địa bàn nông thôn miền núi nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường trong và ngoài nước, từng bước hình thành thị trường công nghệ và dịch vụ ở nông thôn, tạo đà cho việc ứng dụng nhanh các thành tựu KH&CN vào sản xuất và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn, miền núi theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Các dự án được hình thành gắn với các mục tiêu, sản phẩm cụ thể như: Nâng cao hiệu quả sản xuất lúa gạo nhằm bảo đảm an ninh lương thực và chất lượng xuất khẩu; ứng dụng công nghệ cao để sản xuất các loại nông sản quý (rau quả và hoa), phát triển các loại nông sản nhiệt đới có lợi thế so sánh cao (cà phê, tiêu, chè, điều, cao su), nâng cao hiệu quả sản xuất các mặt hàng còn phải nhập khẩu (bông, cây dầu thực vật, bột giấy); ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ sinh học vào các khâu sản xuất, chế biến, bảo quản trong các ngành sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ…
Qua 3 giai đoạn với 15 năm thực hiện, Chương trình đã hoàn thành các mục tiêu đặt ra: Thực hiện tốt việc chuyển giao và ứng dụng công nghệ cao vào các khâu của sản xuất nông nghiệp, trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, chế biến và phát triển công nghệ sử dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng biogas; ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ nông nghiệp, nông thôn và miền núi, hải đảo. Chương trình đã góp phần cùng với các Chương trình nông thôn mới, Chương trình Khuyến nông, Khuyến ngư và Khuyến công phát triển các sản phẩm hàng hóa có lợi thế của các vùng, hình thành các doanh nghiệp ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao ở địa phương, tạo việc làm và tăng thu nhập cho hàng triệu lao động ở khu vực nông thôn và miền núi.
 |
Giới thiệu giống hàu thương phẩm của Trung tâm Giống thủy sản Bình Định. |
Qua 3 giai đoạn, các dự án của Chương trình đã mang lại hiệu quả về KH&CN rất tích cực khi chuyển giao được 4.761 lượt công nghệ; làm chủ được công nghệ sản xuất một số giống sạch bệnh, có chất lượng cao, giá thành hạ, thay thế giống nhập khẩu từ nước ngoài; đào tạo được 11.063 kỹ thuật viên cơ sở và trên 1.725 cán bộ quản lý KH&CN ở địa phương; tập huấn 236.264 lượt nông dân tiếp nhận và làm chủ được công nghệ. Các dự án thuộc Chương trình đã góp phần thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ưu tiên đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội địa bàn nông thôn miền núi. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn dựa trên phát triển KH&CN, hay là dùng (bằng) KH&CN để phát triển kinh tế-xã hội nông thôn miền núi.
Từ 845 dự án của Chương trình được thực hiện, đã xây dựng được 2.501 mô hình sản xuất. Các mô hình này chính là những mẫu hình về chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KH&CN có tính đại diện cho địa bàn triển khai, do chính người dân sau khi được tập huấn kỹ thuật trực tiếp thực hiện. Việc nhân rộng mô hình chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KH&CN là mục tiêu nói riêng của chương trình nông thôn-miền núi và cũng là yếu tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn, miền núi.
Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, việc tổ chức thực hiện các dự án của Chương trình trong các giai đoạn còn bộc lộ những hạn chế như: Nguồn nhân lực lao động thất nghiệp ở địa phương rất lớn, tuy nhiên lại không đáp ứng được yêu cầu sản xuất của các doanh nghiệp, đặc biệt là yêu cầu nghiên cứu triển khai. Bên cạnh đó, hầu hết người dân ở địa bàn nông thôn và miền núi còn rất nghèo, không có điều kiện học hành (dân trí thấp) nên ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiếp thu các tiến bộ KH&CN. Việc bồi dưỡng, tập huấn kỹ thuật mới cho người dân tốn nhiều thời gian, công sức và chưa thực sự đáp ứng yêu cầu.
Ngoài ra, hằng năm nhu cầu đề xuất thực hiện dự án của các địa phương là rất lớn, trong khi kinh phí từ ngân sách Nhà nước dành cho Chương trình còn hạn hẹp nên chưa đáp ứng được nhu cầu (giai đoạn 2011-2015, kinh phí chỉ đủ để dành cho 322/489 dự án, đạt 61% số dự án đề xuất). Đây cũng là lý do chưa có nguồn để bố trí kinh phí phục vụ công tác quản lý dự án ở địa phương. Bên cạnh đó, mức kinh phí hỗ trợ còn thấp so với đề xuất; tiến độ, thời gian cấp kinh phí còn chậm; chưa có chính sách hỗ trợ kinh phí để tiếp tục mở rộng các mô hình đạt hiệu quả sau khi kết thúc dự án.
Có 53/63 tỉnh, thành phố đã có ý kiến chính thức kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép Chương trình tiếp tục được triển khai với thời gian ít nhất là 10 năm. Theo kết quả nghiên cứu, các dự án thuộc Chương trình chủ yếu là cây trồng, vật nuôi, với thời gian thực hiện 2 năm cho một dự án thì nhiều dự án sẽ không thể đánh giá được hiệu quả kinh tế của các mô hình được triển khai (trong lĩnh vực trồng trọt, lâm nghiệp nhiều dự án để đánh giá được hiệu quả kinh tế thì phải mất tới 6 - 7 năm). Vì vậy, Chính phủ cũng nên cho phép các dự án được tiếp nhận công nghệ trực tiếp từ nước ngoài và có thể được kéo dài thời gian thực hiện các dự án trên 5 năm nếu thấy cần thiết.
Hội nghị cũng khẳng định, để việc chuyển giao và ứng dụng KH&CN thành công thì không thể thiếu đội ngũ các nhà khoa học. Vì vậy, Chính phủ cũng cần có cơ chế, chính sách khuyến khích các cán bộ khoa học trẻ, tình nguyện về “nằm vùng”, “cắm bản” để hướng dẫn, chuyển giao KH&CN tại các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
Tin, ảnh: MINH MẠNH