Gần đây báo Quân đội nhân dân liên tục nhận được thư của bạn đọc hỏi về căn bệnh thủy đậu, mức độ nguy hiểm và biện pháp phòng tránh bệnh. Để giúp bạn đọc có thêm kiến thức, chúng tôi xin giới thiệu đôi nét về căn bệnh này.

          Theo số liệu của ngành y tế cho thấy, mỗi năm ở nước ta có từ 6.000 đến 8.000 ca mắc bệnh thủy đậu. Bệnh thủy đậu là bệnh diễn ra quanh năm, nhưng tập trung chủ yếu vào mùa xuân, thời điểm rộ lên là vào dịp cuối xuân. Đến khi trời chuyển hẳn sang hè bệnh giảm rõ rệt. Từ giữa tháng 2-2007 đến nay, các bệnh viện trên địa bàn thành phố Hà Nội liên tục tiếp nhận khoảng 400 bệnh nhân thủy đậu ở Hà Nội và các địa phương lân cận đến điều trị. Trong số này hầu hết là trẻ em. Tại khoa Khám nhi Bệnh viện Xanh Pôn, TP Hà Nội, trung bình mỗi ngày có gần 20 trẻ mắc bệnh thủy đậu đến khám, chiếm gần 10% số bệnh nhân của khoa. Còn tại Viện các bệnh truyền nhiễm và nhiệt đới quốc gia và Bệnh viện Nhi Trung ương ngày nào cũng có hàng chục ca nhập viện.

          Bệnh thủy đậu do vi-rút Varicella-Zoster gây ra. Triệu chứng khởi phát của bệnh là: sốt, đau đầu, đau cơ, một số trường hợp không có dấu hiệu "báo động". Sau đó, những nốt rạ tròn nhỏ xuất hiện nhanh trong vòng 12-24 giờ, tiến triển thành mụn nước, bóng nước. Ban da rất ngứa, chính vì vậy các bậc cha mẹ cần chú ý ngăn chặn không để xảy ra những tổn thương do gãi vì chúng rất dễ nhiễm trùng. Khi các mụn nước vỡ chúng sẽ khô thành vảy và bong đi sau 5 đến 10 ngày. Trước khi khỏi hoàn toàn, bệnh rất dễ lây qua đường hô hấp hay tiếp xúc trực tiếp (qua da), gián tiếp (qua quần áo, ga gối...). Bệnh từ người mẹ cũng có thể truyền cho thai nhi, gây dị tật. Mặc dù là bệnh lành tính, nhưng không thể chủ quan vì bệnh dễ gây biến chứng nguy hiểm cho người bệnh, nhất là cho các trẻ nhỏ. Một số biến chứng thường gặp là: Xuất huyết ở các mụn thủy đậu, bệnh trở thành một thể "thủy đậu xuất huyết" rất trầm trọng. Một số bệnh nhân bị bội nhiễm thêm các vi khuẩn khác. Các vi khuẩn này vào các mụn thủy đậu, làm sưng to lên, nhiều khi lại gây ngứa. Khi gãi toác da và từ đó để lại những vết sẹo rất xấu. Trong một số trường hợp, các vi khuẩn nói trên, từ các mụn thủy đậu lại xâm nhập ồ ạt vào máu, gây ra nhiều bệnh ở cơ quan khác, như viêm thận, viêm gan v.v.. Riêng chứng "nhiễm khuẩn huyết" mà chúng gây nên cũng đã là nguy hiểm chết người. Chứng viêm phổi do thủy đậu ít khi xảy ra hơn, nhưng rất nặng và rất khó trị. Chứng viêm não do thủy đậu cũng vẫn xảy ra, không hiếm. Những trường hợp này có thể gây chết người nhanh chóng và một số trẻ tuy qua khỏi được vẫn mang di chứng thần kinh lâu dài: bị điếc, bị động kinh v.v.. Ngoài ra, có một thể thủy đậu đặc biệt, gọi là thủy đậu bẩm sinh: đó là những trẻ khi mới sinh ra đã có một số tổn thương ngoài da giống như thủy đậu, nhưng tai hại hơn nữa lại có kèm theo một số dị tật: teo cơ ở chân tay, bệnh ở mắt (bệnh "đục thủy tinh thể", có thể gây mù). Sở dĩ có tình trạng trên là do người mẹ đã bị thủy đậu trong lúc mang thai và bệnh đã xảy ra trong 6 tháng đầu của thai kỳ. Những biến chứng, những thể bệnh kể trên của bệnh thủy đậu đã gây tử vong cho không ít trẻ em. Ngoài ra, bệnh thủy đậu cũng có thể là tiền đề của bệnh zona trong tương lai.

          Chính vì vậy, các chuyên gia về dịch tễ học đưa ra khuyến cáo, hiện nay nước ta chưa có chương trình phòng, chống bệnh thủy đậu và cũng chưa có thuốc đặc trị. Tuy nhiên, đã có vắc-xin phòng thủy đậu. Tiêm chủng phòng thủy đậu được coi là biện pháp hữu hiệu nhất chống lây lan bệnh. Song, việc tiêm vắc-xin cần tuân thủ chỉ định của bác sĩ. Đối với những bà mẹ đang mang thai thì tuyệt đối không được tiêm. Còn đối với những phụ nữ trong khoảng thời gian ba tháng sau khi tiêm vắc-xin phòng thủy đậu không nên thụ thai. Các bậc cha, mẹ cần chú ý, khi phát hiện con, em mình có triệu chứng của bệnh phải kịp thời đưa đến các cơ sở y tế gần nhất để khám và điều trị. Trong quá trình điều trị nên giữ gìn vệ sinh cho người bệnh và tuân thủ đúng phác đồ điều trị mà bác sĩ chỉ định. Bên cạnh đó phải tổ chức tốt việc cách ly người bệnh với người khỏe cho đến khi bệnh khỏi hẳn. Ngoài ra, cần có biện pháp hạ sốt kịp thời cho người bệnh, đồng thời thường xuyên theo dõi tránh biến chứng, trường hợp có biến chứng thì phải kịp thời báo với bác sĩ để có phác đồ điều trị hữu hiệu nhất và cần bố trí cho người bệnh nghỉ học, nghỉ làm khoảng một tuần.

HOÀNG GIANG