Khô hạn sẽ ngày càng gay gắt
Theo số liệu quan trắc của Đài Khí tượng thủy văn Khu vực Nam Trung Bộ, 20 năm trở lại đây, số năm ít mưa, với tổng lượng mưa hằng năm thấp hơn mức trung bình trên 20%, thậm chí trên 30% xảy ra nhiều hơn, đặc biệt các năm: 2004, 2005, 2014, 2015, 2016. Từ đầu năm 2020 đến nay, Ninh Thuận và Bình Thuận phổ biến là không mưa và đang trải qua thời kỳ hạn hán, thiếu nước, mặn xâm nhập cao điểm.
Theo kỹ sư Đặng Thanh Bình, Đài khí tượng thủy văn Nam Trung Bộ: Hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận có khí hậu khô hạn nhất của cả nước. Tổng lượng mưa trung bình hằng năm ở đây chỉ từ 1.000mm đến 1.400mm, không đủ cân bằng với tổng lượng bốc hơi. Ngay cả trong những năm bình thường, cả hai tỉnh này vẫn luôn trong tình trạng thiếu nước. Với những năm lượng mưa thiếu hụt so với trung bình nhiều năm trên 20% thì tình trạng khô hạn càng trở nên cực kỳ nghiêm trọng. Bên cạnh đó, hệ thống sông suối của hai tỉnh đa số chảy trực tiếp ra Biển Đông, phần lớn là ngắn và rất dốc. Mùa lũ nước sông lên và xuống nhanh, nước ngọt có khi ra đến tận cửa sông. Mùa khô dòng chảy kiệt xuống rất thấp, thậm chí nhiều sông suối khô cạn suốt mấy tháng liền, một số cửa sông lớn bị mặn xâm nhập vào sâu.
Tại Hội thảo quốc tế “Khô hạn và các giải pháp khắc phục tại các tỉnh ven biển miền Trung Việt Nam” do UBND tỉnh Ninh Thuận và Cơ quan phát triển Bỉ tổ chức cách đây không lâu, chuyên gia cao cấp về nước và vệ sinh của Ngân hàng thế giới (WB) Iain Menzies đã phân tích: “Mưa tuân theo quy tắc giống như ta lật đồng xu, đó là quy trình định kỳ và ngẫu nhiên. Do đó, các đợt hạn hán tại Nam Trung Bộ nói chung và Ninh Thuận nói riêng lặp đi lặp lại, đã xảy ra trong quá khứ và sẽ tiếp tục trong tương lai”.
 |
Phát triển điện gió ở tỉnh Ninh Thuận. |
Không chỉ tác động tiêu cực tới sản xuất và đời sống, hạn hán còn làm gia tăng nguy cơ ô nhiễm đất đai, nguồn nước ngầm sụt giảm mạnh do khai thác quá mức, ô nhiễm không khí và phá vỡ sự bền vững của hệ sinh thái. Đó là điều mà Nhà nước, chính quyền địa phương, các nhà khoa học phải lưu tâm và tìm cách giải quyết nhanh chóng.
Đồng bộ giải pháp trước mắt và lâu dài
Theo chuyên gia thủy lợi Nguyễn Ngọc Anh, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam: Giải pháp vừa mang tính cấp thiết, vừa mang tính lâu dài là các tỉnh Nam Trung Bộ cần hoàn thiện, tăng cường hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu, cấp nước phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và phát triển các ngành kinh tế-xã hội; tiếp tục đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi mới ở cả quy mô lớn, vừa và nhỏ. Ngoài ra, Trung ương cần giúp đỡ các địa phương nâng cấp các công trình hồ chứa nước, chuyển một số hồ có điều kiện địa hình và nguồn nước từ điều tiết năm sang điều tiết nhiều năm; kiên cố hóa hệ thống kênh mương theo hướng giảm tổn thất, hiện đại hóa các hệ thống thủy lợi để phát huy và tăng tối đa năng lực thiết kế, tăng cường quản lý nguồn nước và quản lý công trình thủy lợi.
Kỹ sư Phạm Hùng Sơn, Giám đốc Đài Khí tượng Thủy văn Bình Thuận nêu quan điểm: “Công tác nghiên cứu khoa học cần tập trung tìm những giải pháp canh tác tiên tiến, hiện đại, tiết kiệm nước, tăng năng suất, chất lượng nông sản, phòng trừ sâu bệnh gắn với chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu, tiêu thụ nông sản ổn định, bền vững. Cần chính sách ưu đãi cụ thể mang tính đặc thù trong tái cơ cấu cây trồng thích ứng với hạn hán, nhất là hỗ trợ nông dân ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Bởi thực tế, các vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, điều kiện cơ sở hạ tầng, nhận thức, kỹ thuật vẫn còn rất nhiều hạn chế, điều kiện khó khăn”.
Thời gian gần đây, nhiều quan điểm của các nhà quản lý, nhà khoa học cho rằng, nên chuyển dần tư duy “chống hạn” sang “sống chung với hạn” một cách hài hòa. Theo đó, các hoạt động sản xuất đời sống và các ngành kinh tế trọng điểm cần được quy hoạch có xét đến yếu tố hạn hán nói riêng và xét đến các tác động bất lợi từ biến đổi khí hậu và thiên tai tự nhiên nói chung. Bên cạnh những khó khăn, các địa phương cũng cần thấy những lợi thế mà hạn hán mang lại, như: Khả năng phát triển nguồn năng lượng sạch điện gió và điện mặt trời, phát triển du lịch dựa vào cảnh quan, khí hậu và các giá trị văn hóa bản địa, những mô hình sản xuất nông nghiệp hiện đại sử dụng tiết kiệm nguồn nước, các cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện khô hạn.
Để bảo đảm địa phương phát triển ổn định và bền vững trước tác động bất lợi từ hạn hán, chắc chắn là không có một giải pháp đơn lẻ nào có thể áp dụng thành công. Vì vậy, các địa phương cần kết hợp đồng thời giữa các nhóm giải pháp công trình và phi công trình. Ngoài ra, sự liên kết chặt chẽ giữa các bên liên quan từ nhà quản lý, doanh nghiệp, nhà khoa học và người nông dân cũng là yếu tố then chốt, đóng vai trò quan trọng. Nam Trung Bộ cần tranh thủ được sự tham gia hiến kế của các viện, trường đại học và cơ sở nghiên cứu. Đây sẽ là nơi đóng vai trò đầu mối trong nghiên cứu và chuyển giao ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến cho địa phương.
Chúng ta phải xác định kịp thời và dự báo, cảnh báo sớm tình hình hạn hán và chỉ rõ các đối tượng, vùng, ngành, lĩnh vực có tính tổn thương cao trước bất lợi từ hạn hán gây ra. Từ đó hỗ trợ địa phương trong việc phân vùng hạn hán, đánh giá nguy cơ, mức độ tổn thương do hạn hán, góp phần cung cấp cơ sở khoa học vững chắc cho các quy hoạch phát triển tại địa phương có xét đến yếu tố biến đổi khí hậu nói chung và hạn hán nói riêng. "Căn cứ trên diễn biến thực tế tại hai địa phương so với các khu vực khác trong vùng duyên hải Nam Trung Bộ, Trung ương, các bộ, ngành cần thiết có những hỗ trợ kịp thời về mặt kinh phí cho các dự án, chương trình thích ứng với hạn hán. Ngoài ra, sự hỗ trợ và hướng dẫn về khía cạnh thể chế, pháp lý cũng là yếu tố then chốt quyết định đến sự thành công trong việc “sống chung với hạn hán” tại mỗi địa phương”, GS, TS Nguyễn Kim Lợi, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu biến đổi khí hậu Trường Đại học Nông Lâm TP Hồ Chí Minh chia sẻ.
Nhóm phóng viên cơ quan đại diện phía Nam