Hàng chục GW điện sạch đang xếp hàng chờ phê duyệt
Xu hướng chuyển dịch từ năng lượng hóa thạch sang các nguồn NLTT đang là cuộc chạy đua quyết liệt giữa các nước nhằm hướng tới sự phát triển bền vững trong tương lai. Tiềm năng NLTT tại Việt Nam được đánh giá cao hơn rất nhiều so với các quốc gia trong cùng khu vực, bao gồm: Điện gió ngoài khơi với khả năng kỹ thuật ước đạt 600 GW-cao nhất khu vực ASEAN. Điện mặt trời với hơn 450 GW tiềm năng. Cùng với đó là tiềm năng lớn về sinh khối nông nghiệp (gần 100 triệu tấn phụ phẩm mỗi năm); điện từ rác thải (hơn 60 triệu tấn rác sinh hoạt/năm) và thủy điện nhỏ (gần 2.500MW chưa khai thác)...
Tuy nhiên, việc chuyển hóa tiềm năng thành hiện thực tại Việt Nam vẫn đang là thách thức lớn. Sau giai đoạn phát triển bùng nổ (2018-2020), hiện có hơn 4.000MW điện mặt trời và điện gió đã xây dựng xong nhưng chưa được ký hợp đồng mua bán điện (PPA) hoặc bị cắt giảm công suất thường xuyên do không giải tỏa được lưới. Việc chưa có chính sách giá điện chuyển tiếp sau giai đoạn áp dụng cơ chế hỗ trợ giá (FIT) cũng khiến hàng chục GW dự án đang xếp hàng chờ phê duyệt, gây lãng phí lớn về nguồn lực xã hội...
 |
Thi công chân đế điện gió ngoài khơi tại trung tâm công nghiệp năng lượng và hậu cần kỹ thuật của Petrovietnam. Ảnh: AN SƠN |
Nhìn nhận về những thách thức này, các chuyên gia, nhà quản lý và doanh nghiệp cho rằng, một trong những nguyên nhân chủ yếu gây cản trở sự phát triển của NLTT là sự thiếu hoàn thiện và thiếu ổn định trong chính sách. Đến nay, dù đã ban hành Quy hoạch điện VIII điều chỉnh và các cam kết quốc tế về phát thải ròng bằng 0, song Việt Nam chưa có luật riêng về NLTT hoặc luật chuyển đổi năng lượng. Các chính sách hiện hành mang tính tạm thời, rời rạc và chưa có sự phối hợp hiệu quả giữa Trung ương và địa phương.
Chia sẻ từ thực tế, ông Nguyễn Thái Hà, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tập đoàn Năng lượng T&T cho biết, việc phát triển điện gió đang đối mặt với nhiều rào cản như: Khung pháp lý điện gió ngoài khơi chưa hoàn thiện; chưa có quy định cụ thể về quy hoạch không gian biển. Bộ Công Thương hiện chưa chính thức ban hành khung giá phát điện cho các dự án điện gió ngoài khơi; hạ tầng kỹ thuật, chuỗi cung ứng chưa sẵn sàng; quy hoạch lưới điện chưa đồng bộ; thiếu nguồn nhân lực kinh nghiệm, chất lượng; vốn đầu tư lớn, trong khi cơ chế hỗ trợ tài chính còn hạn chế. Còn theo PGS, TS Đặng Trần Thọ, Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng (Đại học Bách khoa Hà Nội), cơ chế giá điện mới sau FIT chưa được ban hành kịp thời, khiến các nhà đầu tư mất niềm tin và đình hoãn nhiều dự án. Việc chuyển từ cơ chế FIT sang đấu thầu hoặc PPA theo giá trần chưa rõ ràng về phương pháp xác định giá, cơ chế chia sẻ rủi ro và lộ trình áp dụng. Đồng thời, các PPA hiện tại chưa có tính ràng buộc cao về pháp lý, thiếu cơ chế bảo lãnh thanh toán hoặc chia sẻ rủi ro hạ tầng-chính sách-pháp lý, khiến các tổ chức tài chính quốc tế khó tham gia đầu tư dài hạn...
Khẩn trương hình thành thị trường điện cạnh tranh thực chất
Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc tham gia vào xu thế này thông qua cam kết tại COP26 đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Đồng thời, Chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII điều chỉnh) tháng 4-2025 vừa qua, đặt mục tiêu nâng tỷ lệ NLTT (không tính thủy điện) lên 28-36% vào năm 2030 và 74-75% vào năm 2050. Đây là một bước ngoặt quan trọng, thể hiện sự chuyển dịch từ mô hình năng lượng truyền thống sang năng lượng xanh, bền vững. Song mục tiêu này cũng đặt ra yêu cầu cấp bách về việc tháo gỡ rào cản cho các dự án NLTT, đồng thời hoàn thiện và triển khai sớm các cơ chế, chính sách phát triển điện một cách cụ thể, minh bạch và hiệu quả. Tính đến tháng 12-2024, tổng công suất đặt nguồn NLTT, năng lượng sạch của Việt Nam đạt 29.180MW chiếm khoảng 33,6% tổng công suất đặt toàn hệ thống.
Để giải phóng tiềm năng của NLTT, theo PGS, TS Đặng Trần Thọ, trước mắt cần khẩn trương ban hành cơ chế giá điện chuyển tiếp, với khung giá trần-sàn linh hoạt theo vùng, loại hình công nghệ và thời điểm phát điện. Về dài hạn, một trong những điều kiện tiên quyết là hoàn thiện hệ thống thể chế mang tính đồng bộ, rõ ràng, ổn định và đủ linh hoạt để thích ứng với xu thế công nghệ và thị trường thông qua việc xây dựng luật NLTT hoặc luật chuyển đổi năng lượng. Thêm vào đó, cần thành lập một Ban chỉ đạo quốc gia về chuyển đổi năng lượng và trung hòa carbon, trực thuộc Chính phủ, nhằm điều phối liên ngành giữa các bộ và các địa phương. Ban này không chỉ giám sát thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh mà còn điều phối các chương trình tài chính xanh, quản lý rủi ro hệ thống và cập nhật tiến độ triển khai định kỳ.
 |
Thi công chân đế điện gió ngoài khơi tại trung tâm công nghiệp năng lượng và hậu cần kỹ thuật của Petrovietnam. Ảnh: AN SƠN |
Về phía Bộ Công Thương, ông Đoàn Ngọc Dương, Phó cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công Thương) khẳng định, không thể có chuyển đổi năng lượng nếu thiếu một hệ thống lưới điện thông minh và linh hoạt. Do đó, trong thời gian tới, cần đẩy nhanh đầu tư các đường dây truyền tải chiến lược, hiện đại hóa lưới điện với công nghệ số, thông minh nhằm khai thác và sử dụng tối ưu các nguồn điện NLTT, năng lượng mới trên phạm vi cả nước. Ngoài ra, cần một hệ thống cơ chế, chính sách và thị trường điện hiện đại. Theo đó, cần khẩn trương hoàn thiện thị trường điện cạnh tranh, xây dựng cơ chế tín chỉ carbon, định giá phát thải, thúc đẩy tài chính xanh và các hình thức hợp tác công tư. Đây là nền tảng để huy động nguồn lực tư nhân và quốc tế cho chuyển đổi năng lượng...
Khẳng định chuyển đổi năng lượng là xu thế tất yếu mà Việt Nam phải thực hiện, ông Nguyễn Tài Anh, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, Chính phủ đã có những chỉ đạo rõ ràng về chuyển đổi năng lượng. EVN đang tập trung vào 6 nhóm giải pháp chính như: Phát triển các nguồn năng lượng sạch và tái tạo, phù hợp với cam kết giảm phát thải; ứng dụng công nghệ hiện đại, thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực điện lực; phát triển nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ chuyên gia kỹ thuật có năng lực tiếp cận công nghệ mới, vận hành hệ thống điện hiện đại; huy động nguồn vốn, trong đó đặc biệt cần sự hỗ trợ tài chính từ các tổ chức quốc tế; cải cách cơ chế, chính sách và giá điện, để tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển hạ tầng điện và NLTT...
Chuyển đổi năng lượng không chỉ là xu thế mà còn là đòi hỏi tất yếu để bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh môi trường và an ninh quốc gia trong dài hạn. Sự vào cuộc mạnh mẽ và nhất quán từ Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cùng sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân, các tổ chức quốc tế sẽ là động lực then chốt đưa Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong chuyển đổi năng lượng tại khu vực Đông Nam Á.
VŨ DUNG
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Kinh tế xem các tin, bài liên quan.