 |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm việc với Bộ Tư lệnh Trường Sơn bàn mở đường tiêu chuẩn đông Trường Sơn. Đồng chí ĐổngSĩ Nguyên báo cáo phương án mở đường (cuối năm 1970) |
Hoàn thiện tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn theo tiêu chuẩn đường quốc gia, đối với Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Trường Sơn vốn là hoài bão, là mục tiêu chiến lược. Với thắng lợi có tính chất quyết định của cách mạng Việt-Lào và yêu cầu tất yếu của sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cho tới đầu năm 1973, về khách quan và chủ quan tôi cho rằng đã hội tụ những yếu tố “cần” và “đủ” để thực hiện hoài bão đó. Đối với Bộ Tư lệnh Trường Sơn, sau một thời gian khá dài huy động hơn sáu chục kỹ sư, cán bộ kỹ thuật cầu đường, tổ chức ba đoàn khảo sát, thiết kế..., tới đây chúng tôi đã có một dự án khá hoàn chỉnh về tuyến đường xuyên Bắc-Nam đông Trường Sơn.
Đầu tháng 2 năm 1973, ra Hà Nội nhận nhiệm vụ Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng giao, tôi cùng Tham mưu trưởng công binh Phạm Diêu trực tiếp báo cáo Chính phủ về chủ trương và dự án kế hoạch thi công đường tiêu chuẩn đông Trường Sơn.
Sau khi tôi báo cáo cụ thể, các Phó thủ tướng: Lê Thanh Nghị, Đỗ Mười, Phan Trọng Tuệ đều cho rằng xây dựng đường tiêu chuẩn xuyên Bắc-Nam đông Trường Sơn là một công trình tầm cỡ quốc gia, là một vấn đề có tính chiến lược, triển khai sớm sẽ góp phần quan trọng tạo thế và lực cho sự nghiệp giải phóng miền Nam. Nhưng đó là tuyến đường đi qua địa hình núi non hiểm trở, chia cắt mạnh, thi công rất phức tạp, khối lượng lớn, anh Lê Thanh Nghị, anh Đỗ Mười, và anh Phan Trọng Tuệ đều nhất trí cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn triển khai thi công theo dự án.
Hôm sau, tôi được Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho mời vào làm việc. Anh vui vẻ, thân tình, muốn tôi báo cáo toàn bộ hoạt động của tuyến. Tôi báo cáo rất ngắn gọn, trọng tâm là việc xây dựng đường đông Trường Sơn. Nghe tôi trình bày xong, anh nói:
- Về tuyến đường mà Bộ Tư lệnh Trường Sơn đề xuất, tôi đã được các anh Võ Nguyên Giáp, Lê Thanh Nghị, Đỗ Mười, Phan Trọng Tuệ báo cáo lại. Tôi rất ủng hộ. Đường Hồ Chí Minh như luận chứng của các anh, nếu được triển khai tốt, chúng ta sẽ có thêm một công trình tầm cỡ cho cả trước mắt và lâu dài, đáp ứng được cả yêu cầu quân sự - quốc phòng và kinh tế.
Việc chung giải quyết xong, đã gặp mặt đông đủ gia đình, tôi quyết định vào tuyến sớm hơn dự định. Vào sở chỉ huy, tôi mời Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh để báo cáo lại kết quả sau khi làm việc với Chính phủ và Bộ Quốc phòng, đồng thời trình bày phương án tổ chức thi công đường tiêu chuẩn đông Trường Sơn. Các anh trong Thường vụ và Bộ Tư lệnh nhất trí dự kiến tổ chức thi công do Tham mưu trưởng công binh báo cáo.
Từ ngày 15 đến ngày 19-5-1973, tôi có mặt ở Hà Nội báo cáo Thường trực Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và các anh Đỗ Mười, Phan Trọng Tuệ toàn bộ luận chứng xây dựng hoàn chỉnh đường Trường Sơn. Một số anh trong Bộ Tư lệnh và chủ trì binh chủng trực tiếp làm việc với các cơ quan Nhà nước và Bộ Quốc phòng. Tròn một tuần sau, ngày 25-5, Phó thủ tướng Đỗ Mười thông qua sơ bộ kế hoạch xây dựng cơ bản đường đông và tây Trường Sơn. Đường Hồ Chí Minh đông Trường Sơn là đường xuyên Bắc-Nam, xây dựng theo tiêu chuẩn đường cấp 4 miền núi, bắt đầu từ Tân Kỳ (Nghệ An) đến Chơn Thành (Bình Phước). Bộ Tư lệnh Trường Sơn đảm trách từ Khe Giát (Quảng Bình) vào Chơn Thành, trước mắt vào đến Bù Gia Mập, với tổng chiều dài 1.200 cây số, nền đường 9 mét, mặt đường 7 mét, cầu cống vĩnh cửu và bán vĩnh cửu, bảo đảm hành quân cơ giới và vận chuyển cả hai mùa, xe chạy với vận tốc tối đa 60 km/giờ.
Để tạo điều kiện cho Bộ Tư lệnh Trường Sơn thực hiện khối lượng công việc lớn này, Chính phủ và Bộ Quốc phòng duyệt nâng tổng số lực lượng cầu đường lên hơn 47.000 người, trong đó có hơn 10.000 người là thanh niên xung phong do Trung ương Đoàn chi viện và dân công được huy động ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Đặc biệt, Bộ Quốc phòng quyết định bổ sung và đổi mới trang thiết bị cơ giới phục vụ làm đường, gồm hơn 200 máy húc, hơn 600 xe ben, 50 xe lu, 100 máy ép hơi, máy nghiền đá... Anh Nguyễn Nam Hải-Thứ trưởng Bộ Giao thông-Vận tải cùng một số chuyên gia cầu đường vào hỗ trợ chúng tôi khảo sát cắm tuyến, nghiên cứu kết cấu địa chất, tập trung khảo sát thiết kế đoạn Bù Lạch-Khâm Đức là nơi địa hình phức tạp nhất.
Tháng 6 năm 1973, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Trường Sơn họp bàn chuyên đề về xây dựng đường cơ bản đông Trường Sơn. Tiếp đó, chúng tôi tiến hành tập huấn cho cán bộ sư đoàn, trung đoàn và các cơ quan Bộ Tư lệnh. Tôi truyền đạt cho hội nghị tập huấn về tư tưởng và phương châm xây dựng cầu đường. Hơn hai trăm cán bộ dự tập huấn hào hứng tập trung theo dõi, ghi chép đầy đủ, thảo luận sôi nổi, thẳng thắn, phân tích rõ những ưu điểm và hạn chế của “mô hình” làm đường kiểu mới. Đầu hè cho tới tháng 9-1973, trên mặt trận cầu đường, toàn tuyến đã huy động hơn 1,6 triệu công lao động trực tiếp, hơn 13 nghìn tấn sắt thép, 150 nghìn tấn xi măng... Tuyến đông Trường Sơn đã thông xe được từ Thạch Bàn vào bến Giằng (dài 338 cây số). Tuyến tây Trường Sơn gần 700 km từ Bản Đông và Plây Khốc được hạ dốc, mở rộng, “nắn” sửa những quãng vòng cua gấp. Nhờ vậy, đường của ta từ chỗ tuyến hẹp, dốc cao, bán kính vòng cua nhỏ, thành đường rộng từ 6 đến 8 mét, được rải đá hoặc cấp phối ở những quãng trọng điểm, được là phẳng ở những nơi có kết cấu địa tầng tốt, vượt sông suối hầu hết bằng cầu; bảo đảm lực lượng cả hai hướng, trên dưới 2.000 xe vào ra cả ngày đêm với tốc độ trung bình 30-35 km/một giờ.
ĐỒNGSĨ NGUYÊN - PHAN TẤN(lược ghi)