QĐND - Làng Chan, xã biên giới IA Pnôl của huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai hôm nay cao su xanh bạt ngàn. Không ai có thể tưởng tượng vùng đất này lại chóng hồi sinh đến vậy. Ngay cả Rơ Mah Hơn, một trong số ít công nhân sớm khai khẩn vùng đất này cũng không nghĩ sẽ có ngày nay, càng không nghĩ mình lại trở thành Bộ đội Cụ Hồ. Câu chuyện có thật mà cứ như một giấc chiêm bao...
Chúng tôi cùng Bí thư Đảng ủy Công ty 72-Binh đoàn 15 và Đội trưởng Đội 711 thuộc Công ty 72 bước vào nhà một công nhân người dân tộc Gia Rai. Trong nhà đầy ắp tiếng cười và tiếng chí chóe của trẻ con. Ở làng Chan hôm nay, gia đình nào cũng có nhà mới, xe gắn máy, ti vi, tủ lạnh, bếp ga… Rơ Mah Hơn, Rơ Mah Bơn, Rơ Châm Hoắt,... lứa công nhân đầu tiên ở đây sức vóc đã già vẫn còn nhanh nhẹn và vững chắc như gốc cây cổ thụ. Đã thành thông lệ, những người đàn ông của làng Chan thường gặp gỡ nhau trao đổi kinh nghiệm và thông tin về thời tiết, giá mủ cao su, cà phê. Những công nhân tuổi U.60 gắn bó với mảnh đất biên giới IA Pnôl từ sau giải phóng đến nay có biết bao câu chuyện cuộc đời. Bên ché rượu cần, trong những căn nhà tiện nghi được xây dựng bằng mồ hôi nước mắt và cả lòng kiên nhẫn. Khi biết có đoàn nhà báo ở Hà Nội vào, những người đàn ông làng Chan hiếu khách sau những can rượu cần, họ rủ rỉ kể lại cuộc đời mình cũng chính là những thăng trầm, gắn bó của Bộ đội Cụ Hồ, bộ đội Binh đoàn 15 đến với bà con dân tộc ở đây.
 |
Lãnh đạo và chỉ huy Binh đoàn 15 hướng dẫn đoàn cán bộ QĐND Lào thăm hỏi đồng bào địa phương xã IA Pnôl và tìm hiểu mô hình kinh tế-quốc phòng tại Đội 711. Ảnh: Quỳnh Như
|
Vùng biên giới xã IA Pnôl, huyện Đức Cơ đầu những năm 80 của thế kỷ trước đất đai xơ xác, cỗi cằn. Sự sống thưa vắng trên những vùng hoang hóa mênh mông. Mùa khô, nắng thiêu cháy mọi thứ trên mặt đất. Mùa mưa thối đất thối cát. Nơi biên viễn này, ngày 7-11-1986, Đội sản xuất 711 (sau này thuộc Công ty 72 Binh đoàn 15) được thành lập. Những người lính khoác ba lô đến làng Chan cùng bà con lập ra đội sản xuất với quân số 300 lao động phần lớn là người Gia Rai để trồng những cây cao su đầu tiên, đặt nền móng cho việc trồng cây công nghiệp vùng biên giới với khát vọng và niềm tin mãnh liệt.
Nhưng đất đai, thời tiết đã thử thách con người quá nghiệt ngã. Trong 3 năm đầu, cây chết, lương thực cạn kiệt, lòng người dao động... Hơn 300 lao động bỏ việc chỉ còn 27 người nơi rừng hoang biên giới. Đó là những thời khắc cực kỳ khó khăn. Ông Ksor Linh, lớp công nhân đầu tiên nói: “Ngày ấy đói lắm. Cây cao su trồng chết hết. Bà con bỏ vào rừng đào củ, phá rẫy trồng mì. Trẻ con chết đói nhiều. Mãi sau này mới trồng được cây cao su đấy”. Mọi người chùng xuống trước ánh mắt dường như vẫn còn buồn rười rượi của Ksor Linh. Ai đó lặng lẽ tiếp nước vào ché rượu. Có người đưa tay chấm chấm hốc mắt nhăn nheo...
Từng là vùng đất hứng nhiều bom đạn trong đó có cả hóa chất độc hại, những người đi mở đất ngày đầu ngoài muôn vàn thiếu thốn họ còn phải gánh chịu những nỗi đau âm ỉ từ di chứng chiến tranh. Cái giá của đời sống sung túc, mô hình khai thác, sản xuất năng động hôm nay không phải ai cũng hiểu hết đã phải trả bằng những hy sinh không thể nói hết bằng lời. Cao su xanh bao nhiêu là bấy nhiêu trí lực, số phận và sự vươn lên không ngừng nghỉ của biết bao con người không kể là người Kinh hay người dân tộc thiểu số khác. Già làng Chan là Ksor Duân, một người đàn ông rất già chậm rãi nói bằng tiếng Gia Rai: “Khi bộ đội đến đây trồng cây cao su không ai tin tưởng sẽ được ấm no, có nhà ở vì nhiều người bảo mủ cao su không ăn được. Bộ đội đem gạo, đem mì đến cho ăn, đem thuốc men đến chữa bệnh. Bây giờ nhà ai cũng nhiều gạo, bắp, nhiều xe gắn máy. Bà con làng Chan bây giờ giàu lắm rồi!”.
Mọi người nhìn ra ngoài, trời đang hửng nắng. Tâm trạng càng ngày càng cuốn vào câu chuyện của những người đầu tiên đến mở đất ở nơi đây. Câu chuyên tưởng đứt nối dần dần liền mạch. Năm 1990, khi lần thứ hai siết lại đội hình, Đội 711 vận động được 108 lao động đang tổ chức trồng lại cao su sau nhiều năm thất bại thì những khó khăn khác lại ập đến. Kinh tế trên toàn quốc vô cùng khó khăn, bà con các dân tộc Tây Nguyên phải bới đất lật cỏ mưu sinh từng ngày. Đến cuối năm 1994, đội chỉ còn vẻn vẹn 16 người làm việc cầm chừng và những cây cao su mới trồng cứ ngày càng chết dần, chết mòn. Trước tình hình đó, các cấp ủy Đảng vào cuộc. Chẳng lẽ bao nhiêu hy sinh mất mát mà cuối cùng lại trắng tay? Sau nhiều lần thất bại, lãnh đạo đơn vị, công ty, binh đoàn... hiểu thấu đáo một điều sống còn rằng: Muốn phát triển được sản xuất, trước tiên phải quan tâm đến đời sống người lao động, đặc biệt là bà con các dân tộc vốn còn nhiều hủ tục, chưa quen lối canh tác mới, chưa đặt hết lòng tin vào cây công nghiệp. Không quản khó khăn về đường sá, thời tiết, ngôn ngữ... bộ đội binh đoàn chia nhau đến từng đội sản xuất, đặc biệt là những đội sản xuất có đông người dân tộc thiểu số như Đội 711 cùng ăn ở và cùng lao động với bà con...
Người không phụ đất thì đất cũng chẳng phụ người. Sau bao nhiêu cơ cực thì rừng cao su biên giới Đức Cơ cũng bắt đầu khép tán và cho mủ. Niềm tin đã nuôi dưỡng con người từ ngàn đời và những người lính càng tin tưởng điều ấy. Hàng ngàn héc ta cao su đang phủ xanh những vùng biên giới xưa kia từng hoang hóa. Căn nhà của vợ chồng công nhân trẻ Kso Găn, công nhân tiêu biểu của đội mới xây trị giá hơn 300 triệu đồng bằng chính năng suất lao động từ vườn cao su Đội 711 giao cho. Có những tháng lương của Kso Găn được lĩnh hơn 10 triệu đồng. Trong căn nhà mới, gia đình Kso Găn sống rất hạnh phúc. Những thanh niên ở làng Chan hôm nay hầu như ai cũng có hai xe gắn máy, một chiếc tàng tàng đi cạo mủ, một chiếc đắt tiền đón con đi thị trấn chơi. Những đứa trẻ Tây Nguyên hôm nay không những được đến lớp, đến trường mà đã biết tới máy vi tính, đàn điện tử ngay ở trong nhà, những thứ chỉ mấy năm trước còn quá xa lạ với cha anh chúng.
Với 132 công nhân là người dân tộc trên tổng số 171 cán bộ công nhân, Đội 711 đang là đơn vị có số lao động dân tộc đông nhất Binh đoàn 15, nhưng cũng là nơi có năng suất ổn định nhất. Từ những cơ cực, thất bại ban đầu, mô hình sản xuất gắn với bà con dân tộc nơi biên giới đang ngày càng được hoàn thiện. Những công nhân lớp đầu tiên như: Rơ Mah Bơn, Rơ Mah Hơn, Rơ Châm Hoắt, Kso Linh… bây giờ đã nghỉ ngơi nhường công việc cho lớp con cháu nhưng kinh nghiệm của họ vẫn luôn được chú trọng phát huy, đặc biệt là đức tính kiên trì trong những lúc khó khăn, gian khổ.
Là một xã biên giới của huyện Đức Cơ, những năm qua từng có lúc đây là địa bàn nóng, phức tạp, có nhiều điểm vượt biên trái phép gây mất ổn định trên địa bàn. Đội 711 ngoài sản xuất còn duy trì công tác bảo đảm an ninh-trật tự trên địa bàn đứng chân. Nhiều công nhân người dân tộc đồng thời là dân quân tự vệ địa phương, cùng với chính quyền và nhân dân, các lực lượng vũ trang khác góp phần duy trì ổn định địa bàn, tham gia bảo vệ an ninh biên giới.
Đã gần 30 năm kể từ ngày cán bộ, công nhân Đội 711 trồng những cây cao su đầu tiên xuống vùng đất heo hút xã biên giới IA Pnôl, sau những thăng trầm, đến nay, bạt ngàn cao su xanh từ bàn tay những người lính trên khắp đất Tây Nguyên đã mang lại ấm no, hạnh phúc cho hàng vạn hộ bà con các dân tộc. Người đi mở đất không ít người đã vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất từng thấm đẫm mồ hôi, nước mắt của chính mình. Người đang sống hôm nay tri ân, tưởng nhớ, hoài niệm về những ngày gian khổ tưởng chừng không vượt qua được. Khói hương như đang thì thầm, nhắc nhở về một câu chuyện như cổ tích do chính bàn tay người chiến sĩ các thế hệ Đội 711 và bà con dân tộc ở làng Chan tạo nên trên xã biên giới IA Pnôl của bạt ngàn Tây Nguyên hùng vĩ...
PHÙNG VĂN KHAI