THE xếp hạng 11 lĩnh vực của các trường đại học dựa trên 3 nguồn dữ liệu: Kết quả khảo sát (do THE thực hiện độc lập), cơ sở dữ liệu công bố khoa học trên hệ thống Scopus (thuộc NXB Elsevier) và dữ liệu do cơ sở giáo dục Đại học cung cấp.

Ảnh minh họa: TTXVN 

Trong 11 ngành của THE, các Đại học Việt Nam được xếp hạng tại 7 ngành, đều thuộc nhóm Kỹ thuật, Khoa học và Công nghệ thông tin. Trong đó, ngành Khoa học máy tính của Trường Đại học Tôn Đức Thắng và ngành Lâm sàng và Sức khỏe của Trường Đại học Duy Tân giữ hạng 176-200, top cao nhất mà các trường Việt Nam đạt được tại bảng xếp hạng nhóm ngành.

Đây là lần đầu tiên ngành Khoa học máy tính của Việt Nam được xếp hạng trong top 200 thế giới. Thứ hạng cao nhất của ngành Kinh doanh và Kinh tế, Khoa học xã hội là 301-400; Kỹ thuật, Khoa học Vật lý vào top 300, còn Khoa học sự sống 501-600.

Về số lượng ngành trong mỗi trường được xếp hạng, 2 Đại học Quốc gia góp mặt ở 6/7 ngành (trừ ngành Lâm sàng và Sức khỏe). Đại học Quốc gia Hà Nội tiếp tục duy trì 4 lĩnh vực đã được xếp hạng trong kỳ xếp hạng trước và gia tăng thêm 2 lĩnh vực mới được xếp hạng là Kinh doanh và Kinh tế (Business and Economics) và Khoa học sự sống (Life Sciences). 

Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh giữ ổn định về số lượng ngành được xếp hạng, nhưng hầu hết giảm về thứ bậc. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội có kết quả ổn định so với năm ngoái khi cả số ngành được xếp hạng và vị trí không thay đổi. Năm nay là năm đầu tiên Đại học Huế góp mặt trong bảng xếp hạng nhóm ngành, đứng thứ 1.001+ với ngành Khoa học Vật lý.

6 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam góp mặt trong bảng xếp hạng này là Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Đại học Huế, Trường Đại học Duy Tân, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.

NGỌC LÂM