Chuyển đổi hệ thống để thích ứng

Phóng viên (PV): Thưa Bộ trưởng, trước thềm năm học mới, ngành giáo dục được dự báo sẽ còn tiếp tục đối diện nhiều khó khăn. Sau hơn 4 tháng đảm nhận cương vị Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, với rất nhiều bộn bề, ông thấy đâu là thách thức lớn nhất và cần ưu tiên giải quyết ngay?

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn. 

Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn: Tại thời điểm này, ngành giáo dục đang đứng trước nhiều thách thức, nhưng có thể kể đến hai thách thức lớn, đó là yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện để phát triển và thích ứng, khắc phục những khó khăn do dịch Covid-19 gây ra. Những thách thức này không độc lập, riêng rẽ mà tác động qua lại lẫn nhau, trong đó, yêu cầu bắt buộc phải thích nghi với dịch Covid-19 dự kiến còn kéo dài cũng là động lực để đổi mới và phát triển.

Một trong những mục tiêu lớn của giai đoạn này là chuyển đổi hệ thống để thích ứng với tình hình dịch bệnh, gia tăng khả năng chống chịu và giảm thiểu tác động tiêu cực đến ngành giáo dục. Trên cơ sở mục tiêu lấy an toàn trước dịch bệnh và bảo đảm chất lượng giáo dục là ưu tiên hàng đầu, quá trình chuyển đổi đòi hỏi cán bộ quản lý giáo dục, các thầy cô giáo chủ động, sáng tạo và trách nhiệm trong triển khai, cùng với sự vào cuộc tích cực của các bộ, ban, ngành, địa phương, sự đồng thuận và ủng hộ của toàn xã hội.

PV: Đây là năm thứ hai, các nghị quyết, văn bản chỉ đạo về đổi mới giáo dục theo Chương trình Giáo dục phổ thông (GDPT) 2018 đi vào thực hiện. Vậy trong điều kiện dịch Covid-19 có khả năng còn kéo dài, ngành giáo dục đã có những kế hoạch, hành động cụ thể nào để thích ứng và tổ chức thành công những đổi mới này?

Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn: Những khó khăn khách quan do dịch Covid-19 đã ảnh hưởng rất lớn đến quá trình triển khai Chương trình GDPT 2018. Lứa học sinh vào lớp 1 năm học 2020-2021 phải chịu nhiều thiệt thòi khi không có khoảng thời gian tựu trường sớm đầu năm học để làm quen; cũng chính những học sinh này không có thời gian đến lớp đầy đủ ở bậc học mẫu giáo trước khi bước vào lớp 1. Công tác tập huấn giáo viên cũng gặp nhiều khó khăn bởi hình thức tập huấn chủ yếu là trực tuyến. Công tác xây dựng, thực nghiệm, thẩm định, lựa chọn, tập huấn sách giáo khoa... đều gặp khó khăn nhất định.

Trong điều kiện khó khăn, kết quả triển khai lớp 1 bước đầu ghi nhận những tín hiệu khả quan. Điều này cho thấy nỗ lực, quyết tâm rất lớn của các thầy cô giáo, cán bộ quản lý của các địa phương và của toàn ngành giáo dục; đồng thời cũng cho thấy, nếu có giải pháp phù hợp để thích ứng với điều kiện thực tế, việc triển khai đổi mới sẽ đạt hiệu quả. Thẳng thắn nhìn lại năm học đầu tiên với những việc đã làm được, chưa làm được, rút ra bài học kinh nghiệm, Bộ GD&ĐT đã đưa ra kế hoạch triển khai chương trình, sách giáo khoa GDPT mới trong những năm tiếp theo. Theo đó, Bộ GD&ĐT sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan tích cực rà soát, tham mưu Chính phủ ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các văn bản thuộc thẩm quyền Chính phủ; chủ động hoàn thiện hệ thống văn bản theo thẩm quyền, tạo hành lang pháp lý triển khai hiệu quả chương trình, sách giáo khoa GDPT, trong đó đặc biệt chú trọng đến cơ chế, quy trình biên soạn, thẩm định và triển khai sách giáo khoa theo Chương trình GDPT 2018 bảo đảm chất lượng. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện công tác bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục bảo đảm chất lượng, hiệu quả. Đồng thời, hướng dẫn các địa phương rà soát, sắp xếp hợp lý mạng lưới cơ sở giáo dục; rà soát, đánh giá thực trạng cơ sở vật chất hiện có, điều chỉnh, bố trí, sắp xếp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng. Đặc biệt, quan tâm tới các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, khu đông dân cư, các khu công nghiệp.

Chất lượng giáo viên quyết định thành công của đổi mới giáo dục

PV: Thưa Bộ trưởng, chương trình dù hay đến mấy, nhưng đội ngũ giáo viên không đủ khả năng triển khai cũng sẽ thất bại. Thực tế năng lực đội ngũ giáo viên hiện nay nhiều người còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc triển khai Chương trình GDPT mới. Bộ GD&ĐT có những giải pháp gì? Phải chăng đời sống giáo viên còn thấp khiến ngành chưa thu hút được đội ngũ giáo viên chất lượng cao?

Cô giáo và học sinh Trường Tiểu học số 1, TP Lai Châu bước vào năm học mới 2021-2022.

Ảnh: Phạm Kiên  

Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn: Quyết định chất lượng giáo dục, quyết định thành công của đổi mới giáo dục chính là các nhà giáo. Ngành giáo dục triển khai Chương trình GDPT 2018 trong điều kiện muôn vàn khó khăn. Riêng về số lượng giáo viên cho triển khai chương trình ở lớp 1 đã không đủ, chưa nói đến các lớp học và cấp học khác. Hầu hết các địa phương phải huy động giáo viên ở các lớp cao hơn, dành sự ưu tiên cao nhất về đội ngũ cho lớp 1. Vì vậy, trong thời gian tới, các bộ, ngành, địa phương và các đơn vị liên quan phải có giải pháp thống nhất về tuyển dụng, sử dụng, bố trí, sắp xếp đội ngũ giáo viên thật căn cơ, bài bản và có lộ trình phù hợp.

Thời gian qua, Bộ GD&ĐT đã phối hợp với Bộ Nội vụ để tham mưu Chính phủ đưa ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong tuyển dụng giáo viên của các địa phương. Việc này vẫn đang tiếp tục được làm để có thêm những giải pháp hữu hiệu hơn nữa, trong đó bao gồm cả việc bố trí, sắp xếp từ nơi thừa sang nơi thiếu sao cho hợp lý và hiệu quả. Khi giải được bài toán về số lượng sẽ giảm được áp lực cho nhà giáo, từ đó cũng góp phần nâng cao chất lượng.

Về chất lượng giáo viên, chúng ta có một thời gian dài đào tạo giáo viên theo mục tiêu của chương trình giáo dục cũ, giáo viên cũng dạy theo chương trình cũ; vì vậy, khi đổi mới họ cần được bồi dưỡng, tập huấn để đáp ứng yêu cầu. Ngoài ra, với mục tiêu mới, sắp xếp, bố trí giáo viên phù hợp với năng lực, sở trường là việc cần được quan tâm.

Về đời sống, thu nhập của giáo viên, thời gian qua, đã có một số chính sách đối với sinh viên sư phạm, giáo viên mới vào nghề, giáo viên có thâm niên công tác nhằm từng bước tháo gỡ vấn đề trên. Tuy nhiên, để giải quyết triệt để vấn đề này, cùng với Bộ GD&ĐT, cần có sự vào cuộc của nhiều bộ, ngành liên quan và triển khai tích cực từ các địa phương. Bộ GD&ĐT sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành để tham mưu cho Chính phủ ban hành những chính sách phù hợp, tạo điều kiện để nhà giáo và các cán bộ làm công tác giáo dục.

PV: "Bệnh thành tích" trong giáo dục đã tồn tại khá lâu, khiến nhiều kế hoạch, cuộc vận động trước đó thất bại. Để có thể thực hiện thành công những chương trình hành động sắp tới, ngành giáo dục sẽ giải quyết vấn đề này như thế nào, cách tiếp cận ra sao và bắt đầu từ đâu, thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn: Hướng tới một nền giáo dục thực chất và chất lượng không chỉ là chỉ đạo của Chính phủ đối với ngành giáo dục mà còn là mong muốn của tất cả chúng ta. Để đạt được điều này, chúng ta không chỉ loại bỏ "bệnh thành tích” mà cần có hệ thống giải pháp đồng bộ từ trên xuống dưới, từ quan điểm, định hướng, quyết sách cho tới các hoạt động cụ thể. Dưới góc độ quản lý nhà nước, Bộ GD&ĐT đang có những điều chỉnh trong việc ban hành chính sách trên cơ sở bám sát thực tiễn, giải quyết các vấn đề thực tiễn của ngành.

Các sở, phòng GD&ĐT, nhà trường cần triển khai việc học, kiểm tra đánh giá sao cho đúng và thực chất. Quá trình dạy học cần quan tâm tới thực tiễn, trải nghiệm; chú ý đến việc tự học; chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, nhân cách và phát triển toàn diện cho học sinh.

Bậc đại học, từ khâu xây dựng chương trình tới thiết kế chuẩn đầu ra, tới đặt từng môn học sao cho sát hợp thực tiễn. Học đi đôi với hành, thực tập đầy đủ, thực chất. Lấy nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo làm nền tảng để tạo ra chất lượng. Thay đổi phương pháp để người học tiếp thu tốt nhất, thích học, biết học để làm gì, học ngành nghề phù hợp với năng lực, sở trường chứ không phải học chỉ vì điểm số và bằng cấp, chứng chỉ.

Mặt khác, trong công tác tuyển dụng và sử dụng lao động, các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức cũng cần rà soát về thủ tục và các tiêu chí để hướng tới tuyển và sử dụng nhân lực theo thực chất. Nếu chỉ dựa trên bằng cấp và điểm số thì người học sẽ có xu hướng chỉ lo làm đẹp hồ sơ mà không tập trung trang bị phẩm chất, năng lực và các kỹ năng cần thiết.

PV: Phân luồng trong giáo dục tạo sự phát triển cân đối về cơ cấu trình độ và ngành nghề của nguồn nhân lực quốc gia. Tuy nhiên, công tác phân luồng trong giai đoạn trước chưa thành công. Bộ GD&ĐT có đánh giá lại công tác này và có kế hoạch triển khai nào cho phù hợp với thực tế?

Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn: Năm 2018, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2019-2025” với mục tiêu đến năm 2025, có 25-30% học sinh lớp 9 vào học giáo dục thường xuyên, trung cấp chuyên nghiệp. Sau hơn hai năm triển khai đề án, năm 2021, báo cáo tổng hợp của các địa phương cho thấy, việc phân luồng đã được thực hiện khá tốt ở một số địa phương, tuy nhiên, cơ bản tỷ lệ học sinh lớp 9 vào lớp 10 THPT vẫn ở mức cao, nhiều địa phương ở mức hơn 90% (trong khi mục tiêu của đề án là 70-75%).

Như vậy, từ nay đến năm 2025 sẽ còn nhiều việc phải làm để hoàn thành được mục tiêu đặt ra của đề án. Trong đó, ngành giáo dục sẽ tập trung thực hiện hiệu quả giáo dục hướng nghiệp trong Chương trình GDPT 2018. Đồng thời, ban hành hệ thống văn bản, tiêu chí, chỉ báo nhằm đánh giá việc thực hiện giáo dục hướng nghiệp và phân luồng học sinh trong GDPT.

Để công tác phân luồng, hướng nghiệp ở bậc phổ thông đạt hiệu quả, rất cần có một hệ thống thông tin, dữ liệu được chuẩn hóa về thị trường lao động và dự báo nguồn nhân lực của các ngành, nghề trong hiện tại và tương lai một cách thống nhất, đầy đủ, đồng bộ để các cơ sở giáo dục có thể tiếp cận, sử dụng nhằm phục vụ cho công tác tuyên truyền giáo dục hướng nghiệp. Ngoài ra, các địa phương cũng cần xây dựng và bố trí nguồn lực cho thực hiện đề án tại địa phương. Đồng thời quan tâm, có chế độ, chính sách đối với giáo viên kiêm nhiệm làm công tác hướng nghiệp trong trường học.

PV: Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!

NGUYỄN HÒA - THU HÀ (thực hiện)