Phóng viên (PV): Đề nghị Giáo sư cho biết ý nghĩa của việc ra mắt Trung tâm Nghiên cứu-Phát triển-Đào tạo đối với công tác quan trắc môi trường và bảo đảm an toàn thực phẩm tại Việt Nam?

GS, TS Nguyễn Văn Nội: Việc ra mắt Trung tâm đóng vai trò đặc biệt quan trọng bởi đó là một phần trọng yếu của Dự án hợp tác kỹ thuật SATREPS EDFEN do Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội chủ trì, đồng tài trợ bởi Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Cơ quan Khoa học và Công nghệ Nhật Bản (JST). Mục tiêu của dự án là phát triển công nghệ cao chế tạo thiết bị phân tích nhanh, dễ sử dụng và tăng cường nguồn nhân lực phục vụ kiểm soát an toàn thực phẩm và chất lượng môi trường. Đây đều là những nhiệm vụ mang tính cấp bách khi Việt Nam đang phải đối mặt với các vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm không khí, cũng như tình trạng thực phẩm nhiễm độc tố, hóa chất, gây hại cho sức khỏe con người. Trung tâm được xây dựng theo mô hình tiên tiến, đạt chuẩn quốc tế, bao gồm hệ thống các phòng thí nghiệm phân tích hiện đại, kết hợp phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác phát triển. Sự phối hợp giữa các nhà khoa học Việt Nam và Nhật Bản được kỳ vọng sẽ tạo nên những kết quả đột phá và bền vững, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công tác giám sát môi trường và kiểm soát chất lượng thực phẩm.

 GS, TS Nguyễn Văn Nội. Ảnh: AN AN

 

PV: Theo Giáo sư, đâu là những thách thức lớn nhất trong công tác giám sát môi trường và an toàn thực phẩm hiện nay? Trung tâm có thể giải quyết những thách thức đó như thế nào?

GS, TS Nguyễn Văn Nội: Có hai thách thức mà chúng ta phải đối mặt. Thứ nhất là trang thiết bị. Muốn phân tích chính xác các chất ô nhiễm hay độc tố trong thực phẩm, thiết bị phải đạt mức độ nhạy rất cao. Điều này đòi hỏi công nghệ phân tích tiên tiến mà không phải phòng thí nghiệm nào cũng có. Thứ hai là yếu tố con người. Để vận hành thành thạo thiết bị hiện đại, cán bộ kỹ thuật phải được đào tạo một cách bài bản. Chính vì vậy, dự án sẽ tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn thực hành chuyên sâu cho cán bộ và học viên, cán bộ kỹ thuật quan trắc phân tích môi trường từ 34 tỉnh, thành phố trên toàn quốc, với sự tham gia giảng dạy trực tiếp của các chuyên gia hàng đầu Nhật Bản và Việt Nam.

PV: Giáo sư kỳ vọng Trung tâm sẽ mang lại những thay đổi dài hạn gì cho cơ quan quản lý và người dân?

GS, TS Nguyễn Văn Nội: Trong quá trình triển khai dự án, ngoài việc đầu tư thiết bị, Trung tâm còn đóng góp vào việc hoàn thiện chính sách cho các bộ, ngành liên quan, như: Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Y tế... Một điểm rất mới của dự án là hợp phần chế tạo thiết bị phân tích nhanh dựa trên công nghệ vi lưu, phù hợp cho khảo sát hiện trường với giá thành thấp, dễ sử dụng. Nhờ đó, lực lượng chuyên môn có thể phân tích số lượng mẫu lớn, tạo ra một “kho dữ liệu” phong phú, giúp xác định rõ mức độ ô nhiễm tại từng khu vực. Quy trình này phù hợp với xu hướng mà nhiều quốc gia phát triển đang áp dụng nhằm tiết kiệm chi phí và tối ưu hóa quy trình phân tích một cách hiệu quả.

Các đại biểu tham quan phòng thí nghiệm. Ảnh do JICA cung cấp 

 

Bên cạnh đó, sau khi dự án kết thúc, mô hình phải tiếp tục được vận hành. Muốn làm được điều này cần sự kết hợp của “3 nhà”: Nhà khoa học, nhà quản lý và nhà doanh nghiệp. Đồng thời, nguồn kinh phí duy trì không thể chỉ dựa vào ngân sách nhà nước. Nguồn lực bền vững phải đến từ kết quả nghiên cứu và khả năng thương mại hóa sản phẩm. Mục tiêu không chỉ tạo ra sản phẩm dùng trong dự án mà tiến tới thương mại hóa, đưa ra thị trường những thiết bị “created in Viet Nam”, chứ không chỉ “made in Viet Nam”. Đây là hướng đi quan trọng để bảo đảm tự chủ công nghệ và duy trì hoạt động phòng thí nghiệm trong tương lai.

PV: Theo Giáo sư, các phòng thí nghiệm trọng điểm có những khuyến nghị gì nhằm thúc đẩy hoạt động trong giai đoạn tới?

GS, TS Nguyễn Văn Nội: Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến khoa học, công nghệ, thể hiện qua những chính sách mang tính đột phá như Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 71-NQ/TW. Hai nghị quyết này tạo hành lang pháp lý quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển giáo dục đại học và nâng cao vai trò của nghiên cứu khoa học. Cần khẳng định rằng, trong trường đại học, nghiên cứu chiếm tỷ trọng rất lớn. Phần lớn tri thức khoa học mới của thế giới đều khởi nguồn từ môi trường đại học. Vì vậy, khi có cơ chế mới, các nhà khoa học sẽ có điều kiện phát huy năng lực, đóng góp mạnh mẽ hơn. Đối với các phòng thí nghiệm trọng điểm, ngoài đầu tư từ Nhà nước, chính đội ngũ khoa học cũng phải chủ động thúc đẩy hướng đi bền vững, tìm nguồn lực từ hợp tác với doanh nghiệp, từ kết quả nghiên cứu được ứng dụng trong thực tế. Khi các chính sách mới được triển khai sâu rộng, khoa học Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra những bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.

PV: Trân trọng cảm ơn Giáo sư!

*Mời bạn đọc vào chuyên mục Giáo dục Khoa học xem các tin, bài liên quan.