Ứng phó biến đổi khí hậu bằng khoa học và công nghệ
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, thời gian qua, nhiều chính sách liên quan đến giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu được triển khai. Văn bản pháp lý cao nhất liên quan đến chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu của Việt Nam là Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Cùng với đó là Nghị quyết số 120/NQ - CP của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tại văn bản số 417/QĐ-TTg ngày 13-4-2019, Chính phủ đã ban hành “Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết số 120/NQ‑CP ngày 17-11-2017 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu”. Tiếp đó, ngày 2-4-2022, Bộ Chính trị ban hành “Nghị quyết số 13‑NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” và Chính phủ đã có “Nghị quyết số 78/NQ‑CP ngày 18-6-2022 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 13”.
Các chủ trương này đặt ra yêu cầu phát triển bền vững vùng ĐBSCL kết hợp thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước, môi trường sinh thái, phát triển kinh tế - xã hội hài hòa.
Nhận thức được vai trò then chốt của KH&CN trong hiện thực hóa các nhiệm vụ trên, ngày 29-12-2023, Bộ KH&CN đã ban hành Quyết định số 3289/QĐ-BKHCN phê duyệt Chương trình KH&CN cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030 “Khoa học và công nghệ ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long”, mã số KC.15/21-30.
 |
| Nhiều chính sách liên quan đến giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu được triển khai. Ảnh: Ảnh: Báo Cà Mau |
Chương trình KC.15/21-30 đặt ra mục tiêu tổng quát: Cung cấp luận cứ khoa học, giải pháp, mô hình ứng dụng KH&CN, đổi mới sáng tạo nhằm chủ động và hiệu quả ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), thích ứng với các tác động từ thượng nguồn sông Mê Công, góp phần đưa vùng ĐBSCL trở thành vùng kinh tế trọng điểm, văn minh, sinh thái và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước Việt Nam, hội nhập khu vực và quốc tế.
Cụ thể, chương trình chỉ rõ các mục tiêu như: Phát triển kinh tế bền vững tại ĐBSCL để ứng phó với BĐKH và tác động từ thượng nguồn sông Mê Công; phát triển xã hội bền vững, hài hòa, góp phần đưa ĐBSCL thành vùng văn minh sinh thái và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước để ứng phó với BĐKH và thích ứng với tác động của các hoạt động kinh tế - xã hội ở thượng nguồn sông Mê Công; sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, giảm nhẹ thiên tai để phát triển bền vững ĐBSCL, ứng phó với BĐKH và thích ứng với tác động của các hoạt động kinh tế - xã hội ở thượng nguồn sông Mê Công; tích hợp đồng bộ bảo vệ môi trường, ứng phó với BĐKH, thích ứng với tác động của các hoạt động kinh tế - xã hội ở thượng nguồn sông Mê Công và phát triển bền vững ĐBSCL.
Về nội dung, chương trình tập trung vào nhiều nhóm giải pháp lớn: Thứ nhất, xác lập cơ sở khoa học, thực tiễn, xây dựng và chuyển giao các mô hình, công nghệ, giải pháp để phát triển kinh tế bền vững ở ĐBSCL, ứng phó với BĐKH và thích ứng với tác động của các hoạt động kinh tế - xã hội ở thượng nguồn sông Mê Công.
Thứ hai, xác lập cơ sở khoa học, thực tiễn, xây dựng và chuyển giao các mô hình, công nghệ, giải pháp để phát triển xã hội bền vững, hài hòa, ứng phó với BĐKH, góp phần đưa ĐBSCL thành vùng văn minh sinh thái và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa sông nước, thích ứng với tác động của các hoạt động kinh tế - xã hội ở thượng nguồn sông Mê Công.
Thứ ba, xác lập cơ sở khoa học, thực tiễn, xây dựng và chuyển giao các mô hình, công nghệ, giải pháp sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học theo hướng chuyển đổi xanh, giảm nhẹ thiên tai để phát triển bền vững, ứng phó với BĐKH ở ĐBSCL và thích ứng với tác động của các hoạt động kinh tế - xã hội ở thượng nguồn sông Mê Công.
Thứ tư, xác lập cơ sở khoa học, thực tiễn, xây dựng và chuyển giao các mô hình, công nghệ, giải pháp tích hợp đồng bộ ứng phó BĐKH và thích ứng với tác động của các hoạt động kinh tế - xã hội ở thượng nguồn sông Mê Công với phát triển bền vững ĐBSCL.
Tạo nền tảng phát triển bền vững bằng khoa học và công nghệ
Chương trình KC.15/21-30 sẽ bảo đảm kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, đồng thời hạn chế chồng chéo với chương trình cấp bộ, ngành và địa phương. Bộ KH&CN cũng đã ban hành quy định mới khuyến khích các địa phương “đặt hàng” những vấn đề cần giải quyết cấp bách, từ đó hình thành các nhiệm vụ nghiên cứu sát thực tiễn.
Vùng ĐBSCL đang đứng trước những “áp lực kép”, vừa là vùng kinh tế trọng điểm, vừa là vùng dễ bị ảnh hưởng trước BĐKH. Việc xây dựng các đập thủy lợi, thủy điện của các quốc gia thượng nguồn sông Mê Công đã làm giảm lưu lượng chảy sông Tiền, sông Hậu vào Việt Nam, dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn tại một số tỉnh ven biển ĐBSCL diễn ra ngày càng khắc nghiệt và phức tạp.
Các sông chính và kênh nhánh bị nhiễm mặn sớm hơn, ranh giới nhiễm mặn vào sâu hơn trong nội đồng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sản xuất nông nghiệp, công trình xây dựng của người dân toàn vùng.
Nhiều nhà khoa học đã nêu ý kiến, nhấn mạnh, cần có kịch bản khoa học và dài hơi đối với vấn đề thích ứng BĐKH tại ĐBSCL. Theo đó, giải pháp không chỉ dừng lại ở việc phòng, chống thiên tai, xâm mặn, mà phải hướng tới chuyển đổi mô hình sản xuất, nâng cao nhận thức cộng đồng, thúc đẩy hợp tác quốc tế và liên kết vùng, tận dụng nguồn lực khoa học trong và ngoài nước để hiến kế cho phát triển bền vững toàn vùng.
 |
| Đồng bằng sông Cửu Long đang đứng trước những “áp lực kép”, vừa là vùng kinh tế trọng điểm, vừa là vùng dễ bị ảnh hưởng trước biến đổi khí hậu. Ảnh: Báo Cà Mau |
Chương trình KC.15/21-30 đặt yêu cầu ít nhất 80% kết quả nghiên cứu phải được áp dụng thực tế; 50% nhiệm vụ có doanh nghiệp hoặc địa phương tham gia; 30% nhiệm vụ có sản phẩm sở hữu trí tuệ. Điều này thể hiện tinh thần “nghiên cứu để phục vụ phát triển”, lấy hiệu quả ứng dụng làm thước đo.
Theo đó, hạ tầng khoa học cần thiết cho vùng đang được định hướng xây dựng gồm: Hệ thống ngăn mặn và cấp nước thông minh; Hệ thống cảnh báo sụt lún thời gian thực; giao thông đường thủy thông minh; Đô thị xanh, nông thôn mới tuần hoàn, khu công nghiệp carbon thấp.
Khi được triển khai hiệu quả, các mô hình KH&CN từ giống cây trồng thích ứng, hệ thống nuôi trồng thủy sản công nghệ cao, đến thương mại điện tử và quản lý dữ liệu nông nghiệp sẽ giúp ĐBSCL không chỉ ứng phó BĐKH, mà tận dụng nó để tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng bền vững.
Để ĐBSCL “thuận thiên” và phát triển bền vững, hơn bao giờ hết cần sự tham gia của cộng đồng khoa học, doanh nghiệp, địa phương, người dân và hệ thống chính sách. Chương trình KC.15/21-30 chính là nền tảng để kết nối các nguồn lực đó, đưa KH&CN trở thành trụ cột của phát triển vùng
Chương trình KC.15/21-30 không chỉ là bước phát triển tiếp theo trong chuỗi chính sách quốc gia cho vùng ĐBSCL, mà còn là công cụ KH&CN chủ đạo giúp khu vực này vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội, và phát triển.
Bộ KH&CN giữ vai trò chủ trì trong việc triển khai chương trình, tổ chức đặt hàng nhiệm vụ, huy động nguồn lực KH&CN, phối hợp với địa phương và doanh nghiệp để đưa kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.
Việc thực hiện thành công chương trình KC.15/21-30 sẽ góp phần rất lớn vào việc cụ thể hóa các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước dành cho vùng ĐBSCL. ĐBSCL chỉ có thể trở thành vùng kinh tế trọng điểm, sinh thái, văn minh và hội nhập quốc tế khi khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được đặt ở trung tâm chiến lược phát triển. Đây cũng là con đường để vùng đất giàu truyền thống này tiếp tục vươn lên, bền vững cùng nhịp chuyển động của thế giới.
THU HIỀN
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Giáo dục Khoa học xem các tin, bài liên quan.