Cuốn sách không chỉ là tập hợp những bài khảo cứu về lịch sử, ngôn ngữ và thư tịch cổ mà còn là minh chứng sinh động cho phương pháp nghiên cứu nghiêm cẩn, bền bỉ, đặt nền tảng trên những tài liệu gốc được thẩm định kỹ lưỡng. Cuốn sách đoạt giải C Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ VII, năm 2024.
 |
Bìa cuốn sách. |
Tác giả Trần Kinh Hòa tốt nghiệp ngành Sử Đông phương tại Đại học Keio (Nhật Bản) năm 1942, sau đó đến Hà Nội thực tập ở Trường Viễn Đông Bác cổ. Những năm 1943-1945, ông học tiếng Việt, tiếp xúc với nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Trần Kinh Hòa có thể sử dụng thông thạo nhiều thứ tiếng như: Việt, Trung, Nhật, Anh, Pháp... Chính khả năng này đã mở ra cho ông cơ hội tiếp cận và khai thác kho tư liệu trải rộng qua các quốc gia. Từ cuối năm 1950, trên cương vị Chủ tịch Ủy ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam tại Đại học Huế, ông trực tiếp chỉ đạo việc chỉnh đốn, lập mục lục toàn bộ “Châu bản triều Nguyễn”. Đây là một kho tư liệu quý, ghi lại các sắc chỉ, tấu trình và công văn hành chính của triều đình, được xem là nền tảng xác thực nhất để biên soạn chính sử. Qua đó cũng là cơ hội để ông hoàn thành thêm nhiều tác phẩm nghiên cứu dày dặn của mình.
“Sử Việt nhìn từ tài liệu nguồn” của GS Trần Kinh Hòa trải dài từ những bộ sử lớn như “Đại Việt sử lược”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Đại Nam thực lục”, “Quốc sử di biên” đến các văn bản ngôn ngữ như “An Nam dịch ngữ”, “Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca”. Mỗi bài nghiên cứu đều được xây dựng trên nguyên tắc khảo chứng nhiều nguồn, đối chiếu giữa chính sử và ghi chép của các nước lân bang hay tư liệu phương Tây. Nhờ vậy, ông có thể làm sáng tỏ những chi tiết từng bị bỏ ngỏ hoặc điều chỉnh những nhận thức chưa chính xác.
Không chỉ làm sáng tỏ những vấn đề lịch sử, GS Trần Kinh Hòa còn đưa ra nhiều quan sát tinh tế về văn hóa và bản sắc Việt. Chẳng hạn, ông nhận thấy người Việt thời xưa khi dùng chữ Hán thường cố tình chọn “tục tự” thay cho “chính tự” như một cách biểu đạt khéo léo tinh thần độc lập trong khuôn khổ văn hóa. Hay khi nghiên cứu “Châu bản triều Nguyễn”, ông mô tả tỉ mỉ quy trình lưu trữ trong sử quán như tài liệu được đóng thành quyển theo quý hoặc nửa năm, niêm phong cẩn mật và chỉ mở ra khi có sắc chỉ, từ đó đánh giá mức độ tin cậy của “Thực lục chính biên” so với “Thực lục tiền biên”.
Trong cuốn sách, dịch giả Nguyễn Mạnh Sơn đã khéo léo kết nối các công trình riêng lẻ của GS Trần Kinh Hòa thành một chỉnh thể liền mạch, vừa giới thiệu giá trị học thuật, vừa gợi mở cách tiếp cận tư liệu lịch sử. Nhờ đó không chỉ giúp độc giả tiếp cận các kết quả nghiên cứu mà còn soi tỏ cả hành trình và phương pháp làm việc của GS Trần Kinh Hòa với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khả năng ngôn ngữ, tầm nhìn khu vực và thái độ tôn trọng tuyệt đối với tư liệu gốc.
Tiếp cận “Sử Việt nhìn từ tài liệu nguồn”, người đọc cùng lúc trải qua hai hành trình giàu ý nghĩa. Một là khám phá lịch sử Việt Nam từ chính những văn bản, ghi chép và hiện vật gốc, hai là dõi theo bước chân của một học giả ngoại quốc nhưng dành tình yêu và sự gắn bó trọn đời cho Việt Nam.
Có thể nói, “Sử Việt nhìn từ tài liệu nguồn” của GS Trần Kinh Hòa là cầu nối giữa những kho tư liệu xưa và nhu cầu tìm hiểu hôm nay, giữa quá khứ và hiện tại, giữa tình yêu học thuật và niềm say mê khám phá lịch sử. Cuốn sách không chỉ cung cấp kiến thức mà còn truyền cảm hứng về một tinh thần nghiên cứu chuẩn mực đầy cẩn trọng, trung thực và giàu suy tư với lịch sử, văn hóa Việt Nam.
NGUYÊN ĐỨC
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Văn hóa xem các tin, bài liên quan.