Trước sự thay đổi mạnh mẽ của thời đại công nghệ số, SGK cần thêm điều gì mới? Trên cơ sở tham khảo một số quan điểm, yêu cầu, chương trình, nội dung SGK của một số nước trên thế giới, xin bàn góp một vài vấn đề nhỏ.

Ở thời đại nào thì SGK, theo đúng tên gọi, phải là chuẩn mực kiến thức, có tính chính thống và chuẩn hóa nội dung, là nguồn tài liệu đáng tin cậy phản ánh các giá trị văn hóa, xã hội và đạo đức phù hợp cho việc dạy và học. Trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo (AI) có những bứt phá mạnh mẽ giúp trí tuệ con người không ngừng gia tăng, tạo ra khả năng tích hợp tri thức, do vậy, SGK cần phải thay đổi cho phù hợp với bối cảnh phát triển mới của xã hội.

Học sinh Trường Tiểu học Hồng Hà (phường Hoàn Kiếm, TP Hà Nội) đọc sách Tiếng Việt. Ảnh: ĐỨC NAM

Nhìn chung, phần lớn các nước trên thế giới hiện nay, ngoài việc phải dựa vào tính kinh điển của SGK từng có, SGK mới về các môn khoa học xã hội ưu tiên chọn các đơn vị kiến thức (bài học, tác phẩm) mang tính kết tinh tinh hoa của truyền thống dân tộc, là bản lĩnh tự chủ, tự cường, tinh thần yêu nước, yêu hòa bình, công lý, chính nghĩa, lẽ phải... Ở các môn khoa học tự nhiên, các bài học được thiết kế theo hướng mở, ngoài tính phổ cập, còn đề cao đến tính “có vấn đề” nhằm khuyến khích, khơi gợi tinh thần phản biện, không chỉ phát hiện cái hợp lý, cái đúng, cái hay mà còn phải biết chỉ ra cái hạn chế... Cơ bản hơn là tìm ra các hướng tiếp cận tối ưu, tiết kiệm thời gian nhất.

Trong thời đại số, tri thức thay đổi nhanh chóng, chỉ thời gian ngắn, một số nội dung đã lạc hậu. Đặc biệt là phương thức học tập không chỉ giới hạn ở lớp học và trang sách mà còn mở rộng ra thế giới mạng-kho tri thức số khổng lồ. Do vậy, SGK phải bảo đảm vượt trên tầm một cuốn sách thông thường, phải là một hệ sinh thái học liệu mở, linh hoạt, đa phương tiện, phù hợp với công nghệ số.

SGK thời nay cần đáp ứng các yêu cầu: (1) Tính cập nhật, tức nội dung cấu trúc theo hướng dễ điều chỉnh, bổ sung kiến thức mới (thay vì tính ổn định của SGK cũ); (2) Tính đa phương tiện, ngoài chữ và hình ảnh tĩnh, cần tích hợp âm thanh, video, hình ảnh động, mô phỏng 3D, thực tế ảo (VR) hay thực tế tăng cường (AR) giúp người học trải nghiệm trực quan; (3) Tính tương tác, người học có thể đặt câu hỏi, làm bài tập trực tuyến, tham gia thảo luận hoặc trò chơi học tập ngay trong nền tảng sách, tạo nên sự hứng thú và phát huy tính chủ động, sáng tạo, thể hiện ý kiến riêng; (4) Tính cá nhân hóa, nhờ AI, SGK số có thể phân tích năng lực từng học sinh để đưa ra lộ trình học tập phù hợp; (5) Tính liên kết, mở rộng, SGK số gợi mở, dẫn dắt người học đến các nguồn học liệu bổ trợ mới (bài báo khoa học, thư viện số, kho dữ liệu mở...) để khuyến khích, kích thích tinh thần tự học, tự nghiên cứu của học sinh.

Trong bối cảnh chuyển đổi số, ngành giáo dục nước ta sẽ thống nhất một bộ SGK chung, các gợi ý trên là có tính khả thi. Tất nhiên, căn cứ vào đặc thù bộ môn mà SGK sẽ có những đặc trưng, nhưng việc “số hóa” là tất yếu, không nên bỏ lỡ. Vấn đề là áp dụng với từng bài học, chương trình cụ thể thích hợp, phù hợp.

PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ (nguyên giảng viên Học viện Khoa học Quân sự)

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Giáo dục Khoa học xem các tin, bài liên quan.