Trong số những nhóm ngành có điểm chuẩn tăng vọt ấy, có một số nhóm ngành đang dư thừa nhân lực khiến thí sinh dù phải cạnh tranh gắt gao mới trúng tuyển, nhưng rất có thể khi ra trường vẫn đối mặt với nguy cơ thất nghiệp. Trong khi nhiều ngành xã hội có nhu cầu nhân lực rất cao lại có điểm trúng tuyển thấp không ngờ.
“Nóng” cục bộ
Trong hơn 3.000 ngành tuyển sinh ở gần 250 trường đại học, chỉ có 3-4 ngành có điểm chuẩn hơn 30 điểm. Đó là ngành sư phạm Ngữ văn chất lượng cao của Trường Đại học Hồng Đức (30,5 điểm), ngành xây dựng lực lượng Công an nhân dân của Học viện Chính trị Công an nhân dân (30,34 điểm) và ngành Hàn Quốc học khối C của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội (30 điểm). Trong số những ngành, khối ngành có mức điểm chuẩn tăng từ 5 điểm trở lên, khối ngành tăng nhiều nhất là kỹ thuật và công nghệ, tăng 70 mã nhóm ngành. Tiếp đó là nhóm ngành đào tạo giáo viên, tăng 64 ngành. Sau đó mới đến các khối ngành kinh tế, xã hội nhân văn. Sở dĩ những ngành này có điểm trúng tuyển rất cao bởi ít chỉ tiêu nhưng rất đông thí sinh đăng ký xét tuyển và lại là các thí sinh có điểm thi cao.
 |
| Thí sinh làm thủ tục nhập học tại Trường Đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội, năm 2020. |
Trong khi đó, mùa tuyển sinh năm nay tiếp tục ghi nhận sự thờ ơ của thí sinh với nhóm ngành khoa học đặc thù mà xã hội đang rất cần nguồn nhân lực thuộc khối nông-lâm-ngư nghiệp, khi phần lớn điểm chuẩn trúng tuyển của các trường đều rất thấp. Đơn cử, điểm chuẩn trúng tuyển năm 2021 của Học viện Nông nghiệp Việt Nam chỉ có 3 ngành trên ngưỡng 20 điểm, còn lại 13 ngành đào tạo có điểm trúng tuyển từ 15 đến 16,5 điểm. Tương tự, Trường Đại học Thủy lợi cũng có nhiều ngành quan trọng nhưng điểm chuẩn trúng tuyển cũng chỉ 16 điểm như: Ngành kỹ thuật xây dựng công trình thủy, kỹ thuật xây dựng công trình giao thông, kỹ thuật cấp thoát nước. Hàng loạt ngành ở Trường Đại học Mỏ-Địa chất cũng có điểm trúng tuyển 15 điểm như: Kỹ thuật trắc địa-bản đồ, quản lý đất đai, kỹ thuật tuyển khoáng, kỹ thuật môi trường, địa chất học, kỹ thuật địa chất...
Theo GS, TS Trần Văn Chứ, Hiệu trưởng Trường Đại học Lâm nghiệp, các nhóm ngành đặc thù có vai trò rất quan trọng trong chiến lược quốc phòng, an ninh; có nhiệm vụ cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao thực hiện các chủ trương, chính sách chiến lược quan trọng của quốc gia tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng biển và hải đảo. Tuy nhiên, hiện chưa có những chính sách mang tính chất đòn bẩy nhằm hỗ trợ và thu hút người học vào các ngành học thuộc nhóm ngành này. Cùng với đó là sự nhìn nhận của xã hội và người học về ngành học. Trong quan niệm của nhiều người, đây là nhóm ngành “không "hot", không sang” khi so sánh với rất nhiều ngành học đã và đang được các cơ sở đào tạo mở mới trong thời gian gần đây.
Nhìn vào sự dịch chuyển xu hướng chọn ngành, chọn nghề của thí sinh năm nay khiến nhiều người băn khoăn. Bởi hệ quả từ việc đổ dồn vào một số ngành học “hot” đang dẫn đến rủi ro trước mắt là không ít thí sinh dù đạt điểm cao nhưng vẫn không đỗ bất kỳ một nguyện vọng nào. Xa hơn là sự mất cân đối trong cán cân việc làm.
“Hot” hiện tại chưa chắc “hot” tương lai
Nhận định mức điểm tuyển sinh đầu vào chỉ là một bước nhỏ trong quá trình đào tạo con người, PGS, TS Nguyễn Phong Điền, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cho rằng: Khái niệm ngành “hot” không chỉ ở bước tuyển sinh, mà phải xem xét ngành “hot” ấy xã hội có thực sự cần hay không. Khi ra trường, mức lương, mức độ thăng tiến trong sự nghiệp ra sao mới là điều quan trọng. Thế nên, ngành “hot” ở hiện tại chưa chắc có việc làm “hot” trong tương lai nếu các em đặt không đúng vị trí, không phù hợp với sở trường của bản thân.
Theo báo cáo kết quả khảo sát tình hình việc làm của sinh viên hệ chính quy tốt nghiệp ra trường những năm gần đây được công bố trên website một số nhà trường, tỉ lệ sinh viên có việc làm trên tổng số sinh viên tốt nghiệp đại học đạt tỉ lệ cao, hầu hết hơn 70-80%, thậm chí có trường đạt hơn 90%. Tuy nhiên, theo các chuyên gia giáo dục, đây chỉ là một thông số tham khảo, đôi khi chưa phản ánh đúng tình hình sinh viên ra trường có việc làm đúng ngành nghề đào tạo hay không. Phân tích về vấn đề này, GS, TS Phạm Tất Dong, Phó chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam cho rằng, chưa có cơ sở để kiểm chứng thông tin con số 80% đến 90% sinh viên ra trường có việc làm. Cần phải xem số lượng sinh viên hằng năm tốt nghiệp bao nhiêu, còn bao nhiêu đang không tìm được việc làm, trong đó có cả những ngành “hot”.
Chia sẻ về xu hướng chọn nghề, TS Hà Thúc Viên, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Việt Đức cho rằng, việc lựa chọn ngành học không chỉ tính cho hiện tại mà nên tính việc làm trong 4-5 năm sau. Ngành “hot” cần phải được đánh giá dựa trên nhu cầu nhân lực của lĩnh vực đó trong nền kinh tế. Trong thời đại 4.0, nhu cầu tuyển dụng ở lĩnh vực công nghệ thông tin luôn tăng. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 không đơn thuần chỉ có công nghệ thông tin, nhiều lĩnh vực khác như cơ khí, ô tô, hay những ngành phi kỹ thuật cũng rất cần thiết. Vì vậy, thí sinh cần có những thông tin thực chất, rõ ràng trong công tác định hướng nghề nghiệp. Không nên chạy theo trào lưu, tâm lý xã hội mà nên cân nhắc tới thực lực, sở trường, điều kiện của cá nhân, cũng như nhu cầu nhân lực của xã hội.
Bài và ảnh: KHÁNH HÀ