Thành công bước đầu
Khi về Hà Tĩnh, chúng tôi rất ấn tượng bởi chia sẻ của ông Lê Trần Sáng, Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh về Khu du lịch sinh thái Hải Thượng. Không nói nhiều nhưng ông đưa ra một câu ngắn gọn đủ để chúng tôi hình dung quá trình lột xác của khu du lịch này: “Hà Tĩnh mong muốn nhân rộng mô hình của Khu du lịch sinh thái Hải Thượng để phát triển du lịch”. Trước đây, khu di tích với những điểm lưu niệm lẻ tẻ, xuống cấp, không thể thỏa lòng những người muốn về thăm quê hương của vị danh y hàng đầu đất nước. Từ khi trao cho Công ty TNHH Quý Gia quản lý trực tiếp, khu di tích đã xây dựng bổ sung những hạng mục mà Nhà nước chưa có điều kiện làm. Doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư làm đẹp khuôn viên di tích, đường sá, nhà nghỉ, hệ thống xử lý môi trường, tìm kiếm những con người phù hợp công việc…
Tràng An (Ninh Bình) có vẻ đẹp hút hồn du khách. Ảnh: Hoàng Hà
Giống Hà Tĩnh, Quảng Ninh, Ninh Bình, Quảng Bình là những địa phương chúng tôi đã đến cũng thực hiện trao quyền quản lý trực tiếp di sản cho các công ty tư nhân và bước đầu thu được kết quả đáng khích lệ. Điển hình là Công ty TNHH MTV Chua Me Đất quản lý, góp phần quảng bá hang Sơn Đoòng (tỉnh Quảng Bình) trở thành điểm đến không chỉ là niềm mơ ước của bất kỳ người Việt muốn khám phá nào mà “đẳng cấp” của nó đã vươn tầm ra thế giới; hay Quần thể danh thắng Tràng An đã được Đại sứ Mê-hi-cô, bà Bô-la-nô bày tỏ ngưỡng mộ về vẻ đẹp thiên nhiên cũng như những ấn tượng về khả năng quản lý di sản của Ninh Bình…
Các chuyên gia du lịch cho rằng, hợp tác công - tư trong quản lý điểm đến mang lại những lợi ích không thể phủ nhận. Điểm đến trở nên đẹp hơn, có sức cạnh tranh hơn. Ở nhiều nơi, người lao động địa phương được hưởng lợi tạo nên thế chân kiềng hợp tác giữa Nhà nước - doanh nghiệp - cộng đồng. Được biết, một người chèo thuyền ở Tràng An nếu mỗi tuần chở khách hai chuyến thì thu nhập cũng cao hơn nhiều so với khoảng thời gian này ở nhà trồng lúa. Du lịch đem lại những hiểu biết và thu nhập cho người dân bản địa nên nhận được ủng hộ từ cộng đồng địa phương. Ông Nguyễn Minh Hải, Ban Chiến lược và Phát triển Công ty TNHH Quý Gia, cho biết, bên cạnh những đầu tư điểm đến, ưu tiên hàng đầu của Công ty TNHH Quý Gia là đào tạo nguồn nhân lực. Công ty ưu tiên gửi con em địa phương đi học tại các trường đại học, cao đẳng nếu có cam kết về làm việc tại công ty. Hằng năm, công ty cũng cử cán bộ và nhân viên đi học nghiệp vụ, tham khảo các mô hình quản lý du lịch để nâng cao chất lượng dịch vụ cũng như công tác quản lý di sản.
Cần tuân thủ nguyên tắc quản lý
Ông Bùi Văn Mạnh - Phó giám đốc Ban quản lý Quần thể danh thắng Tràng An cho biết: “Khu di sản đặt dưới sự quản lý của Ban Quản lý quần thể danh thắng Tràng An - một cơ quan độc lập do UBND tỉnh thành lập - chịu trách nhiệm, có đầy đủ nguồn lực, quyền đưa ra các quyết định, và có mối liên hệ công tác chặt chẽ với các cơ quan chức năng, các bên liên quan, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư. Công tác quản lý được tiến hành theo kế hoạch quản lý tổng thể, mang tính pháp lý và được Chính phủ thông qua, kế hoạch quản lý này cũng được xây dựng trên cơ sở tham khảo ý kiến của cộng đồng dân cư địa phương và các bên liên quan chủ chốt khác… Một hợp đồng thuê dài hạn trao quyền cho một công ty tư nhân tiến hành một số khía cạnh trong công tác bảo tồn và quản lý du lịch ở khu Danh thắng Tràng An - Tam Cốc - Bích Động”. Chặt chẽ và chịu sự kiểm soát gắt gao của Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO, của các cơ quan chuyên môn Việt Nam như vậy nhưng chính ông Bùi Văn Mạnh cũng thừa nhận, trong quá trình quản lý khu Tràng An, Ban quản lý cũng phải “vừa làm vừa rút kinh nghiệm”.
Ủng hộ hợp tác công - tư trong quản lý điểm đến, ông Nguyễn Văn Tuấn, Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch cho rằng: “Đây là một trong những định hướng quan trọng trong phát triển du lịch dịch vụ. Quan điểm và định hướng rất chủ đạo của Tổng cục Du lịch là ủng hộ các địa phương thực hiện giao điểm đến cho các doanh nghiệp có khả năng quản lý. Trong đó, Nhà nước chỉ thực hiện chức năng quản lý, định hướng, quy hoạch, hỗ trợ, giám sát, trong khi quản lý trực tiếp, tổ chức dịch vụ giao cho doanh nghiệp... Doanh nghiệp được khuyến khích đóng góp càng nhiều cho di tích càng tốt. Điều cần lưu ý là các doanh nghiệp phải hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc: Hoạt động khai thác, quản lý phải đúng pháp luật, chịu sự giám sát của Nhà nước; chú trọng việc bảo vệ tài nguyên môi trường, tuyệt đối không được gây ra những thiệt hại ảnh hưởng tới môi trường và cuộc sống người dân; chú ý tạo ra lợi ích hài hòa của doanh nghiệp với người dân, toàn xã hội…”.
Rõ ràng, chính những người trong cuộc cũng nhìn ra việc hợp tác công - tư trong quản lý điểm đến đem lại nhiều lợi ích nhưng nếu không quản lý chặt chẽ các điểm đến sẽ bị “tư nhân hóa” và chỉ phục vụ những lợi ích ngắn hạn, không thể phục vụ mục tiêu phát triển du lịch bền vững. Ông Hoàng Nhân Chính, chuyên gia kỹ thuật Dự án Chương trình phát triển năng lực có trách nhiệm với môi trường và xã hội (Dự án EU - ERST) cho rằng, hợp tác công - tư là mô hình Việt Nam nên phát huy để tạo ra sự hiệu quả của điểm đến. Tuy nhiên, để sự hợp tác công - tư và tính cạnh tranh của điểm đến thực sự hấp dẫn và bền vững, mô hình cần hội đủ cả hợp tác và đối thoại. Ở Việt Nam, Dự án EU - ERST đã hỗ trợ được một số mô hình hợp tác công - tư điển hình, tương đối đồng bộ. Điển hình và ở mức cao nhất trong hợp tác công - tư về du lịch ở Việt Nam hiện nay là Hội đồng Tư vấn Du lịch. Hội đồng gồm khoảng từ 20 đến 25 thành viên là những cá nhân có ảnh hưởng lớn trong ngành du lịch cả khu vực Nhà nước và tư nhân. Cứ khoảng 6 tháng một lần, Hội đồng nhóm họp để đưa ra các tư vấn về chính sách, chiến lược marketting, cải thiện nguồn nhân lực cho du lịch Việt Nam… Ngoài ra, Dự án cũng đã hỗ trợ xây dựng được các “hội đồng tư vấn” cấp vùng với mô hình tương tự. Theo đó, các tỉnh, thành phố trên địa bàn hợp tác tránh “giẫm chân nhau”, cùng hợp tác tạo ra những sản phẩm du lịch mạnh, mang tính cạnh tranh, bền vững...
Dù đã có những thành công nhất định, song trước thách thức cạnh tranh hiện nay, xem ra, du lịch Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm để tạo ra mô hình hợp tác công - tư có tính phổ biến, dễ áp dụng mang lại hiệu quả cao hơn nữa.
MINH NHÃ