Tạo thuận lợi cho du khách trải nghiệm tại bảo tàng

Ra đời từ năm 1960 tại tỉnh Thái Nguyên, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam (tiền thân là Bảo tàng Việt Bắc) có diện tích hơn 40.000m2, phân làm hai khu vực chính là nhà trưng bày và khu trưng bày ngoài trời. Hiện nay, bảo tàng đang lưu giữ hơn 4.500 tài liệu hiện vật gốc, phim ảnh, 335 tài liệu khoa học bổ trợ và 1.400 tài liệu chữ viết, hệ thống trưng bày.

Đi cùng Lớp hoàn thiện đại học cán bộ chính trị cấp phân đội Trường Sĩ quan Chính trị tham quan thực tế môn Cơ sở Văn hóa Việt Nam do Đại úy Nguyễn Bá Thanh dẫn đầu, chúng tôi được khám phá nhiều điều thú vị tại bảo tàng này. Chúng tôi được tham quan nhà trưng bày với 5 phòng xây dựng trên cơ sở nhóm ngôn ngữ kết hợp với văn hóa vùng, bao gồm nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, nhóm ngôn ngữ Tày-Thái, 3 nhóm ngôn ngữ là: Mông-Dao, Ka Đai, Tạng Miến, nhóm ngôn ngữ Môn Khơ-me, 2 nhóm ngôn ngữ là Nam Đảo, Hán. Các phòng trưng bày đã tạo dựng hình ảnh gần gũi, tái hiện bản sắc văn hóa 54 dân tộc anh em gắn với cảnh quan môi sinh từng vùng cư trú. Bố trí xung quanh nhà trưng bày là khu trưng bày ngoài trời được thực hiện theo 6 vùng văn hóa gắn với không gian tổ chức lễ hội, có cấu trúc cảnh quan vùng và một ngôi nhà cụ thể mang tính nguyên gốc.

 Thượng úy Nguyễn Chí Nguyện nhập vai "chú rể" trong Lễ Tằng cẩu tại Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Ấn tượng của du khách trong hành trình trải nghiệm tại Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là sự kết hợp giữa thuyết minh và trải nghiệm các hoạt động thực tế. Du khách được trực tiếp tham dự những hoạt động gắn liền với không gian văn hóa từng khu trưng bày. Trong không gian tái hiện đám cưới của dân tộc Thái, Thượng úy Nguyễn Chí Nguyện nhập vai “chú rể” tham gia Lễ Tằng cẩu (Búi tóc ngược). “Cô dâu” Nguyễn Thị Ánh ngồi xuống chiếu trước mâm lễ búi tóc. Người được chọn để làm Lễ Tằng cẩu đứng ở phía sau lưng cô dâu, nhẹ nhàng chải tóc rồi dùng hai tay vuốt ngược tóc từ phía sau gáy lên kèm theo lọn tóc độn và búi cuốn chặt lại từ trái sang phải. “Chú rể” Nguyễn Chí Nguyện sau khi trao cho “cô dâu” vòng bạc tượng trưng, vui mừng chia sẻ với chúng tôi: “Nghe đến Tằng cẩu nhiều, nhưng hôm nay tôi mới được thực mục sở thị. Qua đó mới thấy, văn hóa các dân tộc rất đa dạng. Điều này giúp chúng tôi thêm hiểu và yêu vốn văn hóa dân tộc. Đến với Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một dịp trải nghiệm thú vị, giúp chúng tôi tích lũy thêm kiến thức văn hóa phục vụ cho công việc chuyên môn của mình sau này”.

Không chỉ được trải nghiệm Lễ Tằng cẩu, Thượng úy Nguyễn Chí Nguyện và đồng đội của mình còn được tham gia các hoạt động ngoài trời khác như biểu diễn rối nước, hát then, thổi sáo Mông, vỗ trống Pa-ra-nưng, múa sạp, múa cồng chiêng… Những hoạt động đã mang đến sự kết nối du khách giữa không gian văn hóa tĩnh với không gian văn hóa động của bảo tàng.

Mỗi hiện vật gắn với một câu chuyện văn hóa

Kết thúc hành trình trải nghiệm, chúng tôi mới biết người hướng dẫn viên thuyết minh cho du khách là TS Nguyễn Thị Ngân, Giám đốc Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam. TS Nguyễn Thị Ngân tâm sự: “Trực tiếp tham gia thuyết minh cho các đoàn khách, tôi muốn giúp các du khách cảm thấy mỗi hiện vật trong bảo tàng đều gắn với một câu chuyện văn hóa riêng, và mỗi câu chuyện ấy là một phần linh hồn văn hóa Việt”.

Tìm hiểu được biết, TS Nguyễn Thị Ngân đã gắn bó với Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam 25 năm qua. Bà đã dành nhiều tâm sức, thời gian để đi điền dã, sưu tầm các hiện vật gắn với đồng bào các dân tộc ở nhiều địa phương. Khi đến các bản làng, cùng ăn, cùng ở, cùng sinh hoạt với người dân bản địa, bà và các đồng nghiệp của mình nhận ra đời sống văn hóa các dân tộc rất đa dạng, phong phú. Mỗi hiện vật sưu tầm được đều rất có giá trị. Vì vậy, người làm bảo tàng phải biết “thổi hồn” vào những hiện vật bằng những câu chuyện hấp dẫn để tăng thêm sức thuyết phục mỗi khi thuyết minh cho du khách. Qua đó, giúp mỗi du khách càng thêm trân quý văn hóa 54 dân tộc anh em sinh sống trên đất nước Việt Nam.

TS Nguyễn Thị Ngân cho biết: Chúng tôi xác định đối tượng tham quan chủ yếu của Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là học sinh, sinh viên trên địa bàn, do đó phải có cách làm riêng để không trùng lặp với các bảo tàng khác. Nếu như Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam ở Hà Nội hướng tới vấn đề chuyên sâu về dân tộc và văn hóa, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh ở TP Hồ Chí Minh lấy hòa bình để phản đối chiến tranh, thì Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đã chú trọng gắn kết câu chuyện hiện vật với phạm vi môn học theo chiều lịch đại. Đó cũng là một cách chuyển tải truyền thống lịch sử văn hóa một cách nhẹ nhàng, dễ thẩm thấu vào tình cảm, nhận thức của học sinh, sinh viên và người dân.

Với suy nghĩ và cách làm như vậy, những năm gần đây, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam luôn là một trong những địa chỉ tham quan, học tập hấp dẫn của nhiều đoàn học sinh, sinh viên và người dân ở khu vực phía Bắc. Riêng năm 2015, bảo tàng đã tiếp đón và phục vụ hơn 181.000 lượt khách tham quan tại chỗ, tổ chức 23 hoạt động văn hóa và trưng bày triển lãm chuyên đề, 3 hoạt động quốc tế. Bảo tàng đã hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ là nơi bảo tồn, giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc Việt Nam, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu và hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Năm 2015, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhất lần thứ hai.

Bài và ảnh: ĐỨC HÀ