1. Từ khi báo chí xuất hiện ở nước ta vào giữa thế kỷ 19, các tờ báo đều dành thời lượng nhất định về văn học nghệ thuật, thậm chí xuất hiện nhiều tờ báo chuyên về văn nghệ như: Tiểu thuyết thứ năm, Tiểu thuyết thứ bảy... Báo chí cách mạng cũng không ngoại lệ. Cuốn sách “Tổng quan lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam (1925-2010)” cho biết: Trong các số của tờ Thanh niên-tờ báo cách mạng đầu tiên, thường có “tranh vẽ, thơ, ca. Những mục trên làm cho báo phong phú, đa dạng; tập trung, chính trị mà không khô khan”. Từ khởi đầu ấy, báo chí cách mạng sau này như: Sông Hương tục bản, Dân chúng, Đời nay, Ngày mới, Tạp chí Đông phương, Tin tức, Nhân Dân, Quân đội nhân dân... đều đăng tải các tác phẩm văn học nghệ thuật. Đó có thể là một bài thơ, một truyện ngắn, một bút ký, một bức tranh hay một bản nhạc. Bài hát “Tiến quân ca” của nhạc sĩ Văn Cao đăng trên Báo Độc lập năm 1944 là minh chứng tiêu biểu cho thấy sự hợp tác và mối "lương duyên" giữa văn học nghệ thuật và báo chí.

Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức ra mắt hai tác phẩm mới của nhà báo, nhà văn Như Bình (người đứng). Ảnh: PHONG LAN

Sự liên kết giữa văn nghệ và báo chí được hình thành thông qua vai trò trung gian là đội ngũ nhà báo. Nhiều nhà báo là những người thật sự tài hoa. Họ vừa làm nghề, vừa là những nghệ sĩ sáng tạo âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, kịch nói, như: Trần Mạnh Thường, Đỗ Hữu Khôi, Huỳnh Dũng Nhân, Nguyễn Tiến Lễ, Việt Văn, Lê Quý Hiền, Đoàn Nguyên Hiếu, Nguyễn Trương Quý... Tuy nhiên, do đặc thù nghề nghiệp cùng liên quan đến chữ nghĩa nên nhiều (và nổi trội) hơn cả là trường hợp nhà báo đồng thời là nhà văn. Họ thường là người giữ mục, chuyên trang về văn học nghệ thuật, đảm nhiệm vai trò liên hệ với các cộng tác viên để đặt bài, lên ý tưởng, biên tập, sắp số, viết bài...

Về cơ bản, hiện tượng nhà báo-nhà văn gồm hai trường hợp phổ biến. Thứ nhất, nhà văn thành danh chuyển sang làm báo. Lịch sử văn học và lịch sử báo chí Việt Nam đã từng ghi nhận nhiều thế hệ nhà văn chuyển sang làm báo. Thời kháng chiến chống Pháp có thể kể đến các nhà văn thành danh trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đi theo con đường Bác Hồ và nhân dân lựa chọn, “đầu quân” cho các báo, tạp chí cách mạng như: Thâm Tâm (Báo Vệ Quốc quân), Nam Cao (Tạp chí Tiên phong, Báo Cứu quốc), Tô Hoài (Báo Cứu quốc), Thanh Tịnh (Tạp chí Văn nghệ Quân đội), Nguyễn Huy Tưởng (Báo Cờ giải phóng)... Thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thế hệ các nhà văn trưởng thành ở chiến trường rồi về công tác tại các cơ quan báo chí như: Anh Ngọc (Báo Quân đội nhân dân), Hữu Thỉnh, Khuất Quang Thụy (Tạp chí Văn nghệ Quân đội), Phạm Tiến Duật (Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam), Lưu Quang Vũ (Tạp chí Sân khấu)... Thứ hai là trường hợp nhiều nhà báo sau một thời gian hoạt động báo chí đã chuyển sang địa hạt văn chương và đã ghi dấu ấn ở lĩnh vực này. Việc chuyển sang viết văn là hành động hoàn toàn tự nguyện (và cũng là con đường tất yếu) của nhiều nhà báo có niềm đam mê và năng lực văn chương như: Minh Chuyên, Cao Tiến Lê, Hà Đình Cẩn, Trần Huy Quang, Nguyễn Việt Chiến, Như Bình, Nguyễn Quang Hưng, Đỗ Bích Thúy...

Sáng tác của các nhà văn-nhà báo có đặc điểm chung đó là bám sát đời sống, nhạy bén với các vấn đề nóng đang thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Điều này vừa xuất phát từ thói quen nghề nghiệp báo chí (phải tìm hiểu, đưa tin về các vấn đề trong xã hội), vừa xuất phát từ trực giác, linh cảm, khả năng dự đoán về tương lai cần phải có của người nghệ sĩ. Sự xuất hiện của tác phẩm nổi tiếng “Tắt đèn” là kết quả từ việc quan sát đời sống khổ cực khốn cùng và dự cảm về những hành động phản kháng, vùng lên mạnh mẽ giành lấy quyền sống của người nông dân trong chế độ cũ của nhà văn, nhà báo Ngô Tất Tố. Tác phẩm “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của nhà văn, nhà báo Nguyễn Khắc Trường đi sâu vào khai thác những mâu thuẫn, kèn cựa, đấu đá, bè phái cục bộ của các gia đình, dòng họ chốn thôn quê với những dự báo chính xác về sự đổi thay toàn diện của nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Bên cạnh đó, cũng như những tác phẩm văn học khác, sáng tác của các nhà báo-nhà văn sử dụng nhiều phương thức nghệ thuật nhằm phản ánh hiện thực đời sống xã hội nóng bỏng và tư tưởng, nhân sinh quan người cầm bút. Họ dùng thứ ngôn ngữ văn chương trong sáng, đẹp đẽ mà Lưu Quang Vũ trong bài thơ "Tiếng Việt" đã miêu tả là “như bùn và như lụa/ Óng tre ngà và mềm mại như tơ”, giàu hình ảnh, biểu tượng, có tác dụng làm “rung rinh nhịp đập trái tim người”. Họ áp dụng các biện pháp tu từ nghệ thuật (so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ...); các cấu trúc nghệ thuật về không-thời gian (tuyến tính, hồi cố, song song, xuyên không...); các kỹ thuật dòng ý thức, mảnh vỡ, nhòe mờ...; các biểu tượng văn hóa, tâm linh; các yếu tố vô thức, huyền ảo, kỳ ảo... vào tác phẩm, biến tác phẩm trở thành một “sinh thể nghệ thuật” hoàn chỉnh, độc đáo, duy nhất mang đậm phong cách, dấu ấn sáng tạo của tác giả.       

Sự phối kết hợp giữa hai đặc điểm trên đã tạo thành dấu hiệu “nhận diện” sáng tác của các nhà báo-nhà văn. Sự giao thoa giữa tính thời sự, linh hoạt trong đề tài, chủ đề của báo chí với các thuộc tính vĩnh hằng, bất biến của văn học nghệ thuật (chân, thiện, mỹ); giữa tư duy phân tích, phản biện sắc sảo, thấu đáo của báo chí với tâm hồn nghệ sĩ bay bổng cùng phương thức biểu hiện điêu luyện, tinh tế đầy tính mỹ cảm đã đem lại cho sáng tác của các nhà báo-nhà văn  một sức sống, sức hấp dẫn vượt qua được thử thách khắc nghiệt của thời gian, có chỗ đứng trong lòng độc giả nhiều thế hệ.

2. Ở thời điểm hiện tại, xét một cách tương đối, báo chí chia hai dạng chuyên hoặc không chuyên về văn học nghệ thuật. Các báo, tạp chí chuyên về văn học nghệ thuật thường trực thuộc các tổ chức hội văn học nghệ thuật Trung ương hoặc địa phương như: Báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam), Tạp chí Sông Hương (Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật thành phố Huế)... Hiện tại, đa phần báo, tạp chí văn học nghệ thuật chuyên nghiệp-nhất là các tờ, tạp chí của địa phương-đều sống “lay lắt”, khó khăn bủa vây tứ bề: Ngân sách eo hẹp (chủ yếu sống bằng tiền Nhà nước bao cấp, không thể tự nuôi tòa soạn bằng tiền bán báo); cơ sở vật chất xuống cấp, chậm tiến hành chuyển đổi số; nhân sự vừa mỏng vừa chưa thật chuyên nghiệp ở ngay cả đội ngũ lãnh đạo; tâm lý cục bộ ưu tiên người địa phương mà không mặn mà với người tài ở các vùng, miền khác... Những khó khăn này dẫn đến nhiều hệ quả như khó thu hút được nguồn cộng tác viên tên tuổi cùng nguồn bài vở chất lượng cao; nhân sự khó chuyên tâm, hết lòng, hết sức với công việc vì lương không đủ sống; quá trình sản xuất báo, tạp chí vừa tốn thời gian, tiền bạc, công sức lại không đạt được hiệu quả tối ưu. Những điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng của một số báo, tạp chí văn nghệ địa phương, làm suy giảm, xói mòn niềm tin của bạn đọc.

Các báo, tạp chí không chuyên về văn học nghệ thuật là những tờ đa lĩnh vực, văn học nghệ thuật chỉ xuất hiện dưới dạng thức chuyên mục, chuyên trang. Các chuyên mục văn học nghệ thuật được cố định số trang, số chữ, vị trí xuất hiện, ngày ra... Ở các báo này, văn học nghệ thuật thường được coi là “mục phụ”, có cho đủ “cơ cấu bài vở”, đủ số trang, do đó khó “chuyên chở” được những tác phẩm bề thế về dung lượng, có độ sâu, độ trường. Đã vậy, các chuyên mục này còn dễ bị thay bài bởi các sự kiện “hot” (vốn xảy ra thường xuyên trong kỷ nguyên số, thế giới phẳng như hiện nay). Điều này ảnh hưởng đến chất lượng của chuyên mục.

Có thể thấy, lĩnh vực văn học nghệ thuật ở cả báo, tạp chí chuyên hay không chuyên đều đang phải đối mặt với những khó khăn nhất định. Trong hoàn cảnh hiện tại, trước khi tiến hành những giải pháp mang tính chất căn cơ, đồng bộ để nâng cao chất lượng, thúc đẩy sự phát triển của văn học nghệ thuật trên báo chí, thiết nghĩ việc cần thiết trước mắt là phải quan tâm đến đội ngũ nhà báo-nhà văn, giúp họ yên tâm công tác, kế nữa là tránh giảm, cắt bớt thời lượng các chuyên mục văn học nghệ thuật. Những việc làm này sẽ giúp duy trì sự ổn định, chất lượng của chuyên mục này trên báo, tạp chí ở mức chấp nhận được cho đến khi có những thay đổi lớn diễn ra.    

Tiến sĩ ĐOÀN MINH TÂM