Nhân tài - nguồn lực đặc biệt của mỗi quốc gia
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, chưa có một quốc gia, dân tộc nào vươn lên hùng cường mà thiếu đi sự hiện diện và đóng góp của nhân tài. Từ cổ chí kim, ở phương Đông cũng như phương Tây, mọi học thuyết chính trị - xã hội tiến bộ đều nhấn mạnh đến vai trò đặc biệt của con người, nhất là những cá nhân có trí tuệ, bản lĩnh và năng lực xuất chúng.
Ở Việt Nam, tư tưởng trọng dụng nhân tài đã được khẳng định ngay từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước. Các triều đại phong kiến hưng thịnh đều nhờ biết phát hiện, bồi dưỡng và sử dụng hiền tài. Đặc biệt, trong thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta luôn đề cao vai trò của nhân tài.
Người khẳng định: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển, càng thêm nhiều”. Tư tưởng đó trở thành kim chỉ nam cho Đảng và Nhà nước ta trong mọi giai đoạn phát triển, thể hiện rõ trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay.
Yêu cầu cấp bách về trọng dụng nhân tài hiện nay
Trọng dụng nhân tài không đơn thuần là tôn vinh những người có trí tuệ, mà cốt lõi là tạo ra cơ chế, môi trường để họ phát huy được năng lực, cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Một nhân tài, dù có bản lĩnh xuất sắc, nhưng nếu bị ràng buộc trong cơ chế quan liêu, thiếu minh bạch, hay bị đố kỵ, ghen ghét thì cũng khó có thể đóng góp hết sức.
Vì vậy, vấn đề cốt lõi là phải xây dựng một thể chế minh bạch, công bằng, biết khuyến khích sáng tạo, dám chấp nhận khác biệt, trọng dụng dựa trên năng lực và hiệu quả thực tiễn, chứ không phải trên quan hệ, lý lịch hay hình thức. Đây chính là thước đo bản lĩnh chính trị và tầm nhìn phát triển của một quốc gia.
 |
Những năm qua, công tác trọng dụng nhân tài luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, chú trọng. Ảnh minh họa: SƠN MINH
|
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, bài toán về nhân tài càng trở nên cấp thiết. Ở nước ta, việc phát hiện, thu hút, đào tạo, trọng dụng nhân tài luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, chú trọng.
Nghị quyết Đại hội XIII định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 nhấn mạnh: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công nghệ sinh học, công nghệ nano... đang làm thay đổi căn bản cách thức sản xuất, quản trị và đời sống xã hội. Những quốc gia đi đầu trong việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài công nghệ cao sẽ có lợi thế cạnh tranh vượt trội.
Song, nhân tài không chỉ gói gọn trong phạm vi các lĩnh vực khoa học tự nhiên, kỹ thuật, mà còn mở rộng sang quản trị, văn hóa, nghệ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh. Do đó, chiến lược quốc gia về nhân tài phải toàn diện, lâu dài, có tầm nhìn xa, thay vì manh mún, ngắn hạn. Việt Nam nếu muốn hiện thực hóa khát vọng trở thành nước phát triển, hùng cường vào giữa thế kỷ XXI, không thể không đặt trọng tâm vào chiến lược phát triển và trọng dụng nhân tài.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Chúng ta chưa tạo lập được đồng bộ cơ chế, chính sách, môi trường xã hội cần thiết cho sự phát triển toàn diện của nhân tài. Một số chính sách thu hút nhân tài chưa thực sự hấp dẫn, chưa tạo ra động lực mạnh mẽ để khuyến khích người tài cống hiến lâu dài. Không ít nhân tài trẻ sau khi được đào tạo bài bản ở trong và ngoài nước đã chọn con đường phát triển sự nghiệp ở nước ngoài, do trong nước chưa có sự đãi ngộ thỏa đáng, thiếu môi trường thuận lợi để phát triển. Đây là những rào cản cần sớm được tháo gỡ nếu chúng ta thực sự coi nhân tài là nguồn lực quý giá.
Đề xuất một số giải pháp đồng bộ
Trước hết, cần đổi mới thể chế để khơi thông và phát huy trí tuệ nhân tài. Thể chế chính là “cái khung” quyết định khả năng vận hành và phát huy sức sáng tạo của nhân tài. Nếu thể chế cứng nhắc, thiếu minh bạch, còn nhiều “điểm nghẽn” trong tuyển dụng, bổ nhiệm thì nhân tài sẽ bị lãng phí. Do đó, cần sớm hoàn thiện cơ chế thu hút, tuyển dụng, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh cải cách mạnh mẽ quy trình tuyển chọn cán bộ, công chức, chuyên gia theo hướng cạnh tranh công khai, minh bạch, dựa vào kết quả, năng lực thực chất, thay vì dựa trên quan hệ, “chạy chọt” hay hình thức bằng cấp. Cùng với đó, phải xóa bỏ tâm lý “sợ người tài hơn mình”, khắc phục tình trạng đố kỵ, cục bộ địa phương. Một thể chế cởi mở, trọng thực tài, khuyến khích tranh luận, dám chấp nhận ý kiến khác biệt chính là môi trường để nhân tài phát huy.
Thứ hai, coi giáo dục - đào tạo là nền tảng để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài. Nhân tài không tự nhiên sinh ra mà cần được phát hiện, nuôi dưỡng và rèn luyện trong một hệ thống giáo dục tiên tiến. Giáo dục phổ thông cần chú trọng phát hiện học sinh có năng khiếu, bồi dưỡng tư duy sáng tạo, thay vì chỉ tập trung vào thi cử và thành tích. Đại học cần được trao quyền tự chủ thực chất, gắn kết chặt chẽ với nghiên cứu khoa học, với nhu cầu xã hội và thị trường lao động. Nhà nước cần có chương trình quốc gia phát triển nhân tài, đặc biệt trong các lĩnh vực then chốt như khoa học công nghệ, quản trị công, kinh tế số, quốc phòng, an ninh. Đồng thời, có cơ chế, chính sách đặc biệt để phát hiện, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, khuyến khích tinh thần khởi nghiệp sáng tạo trong giới trẻ, biến khát vọng cống hiến thành hiện thực.
Thứ ba, xây dựng chính sách đãi ngộ và sử dụng nhân tài thỏa đáng. Đãi ngộ không chỉ dừng ở mức lương, phụ cấp, mà quan trọng hơn là tạo điều kiện để nhân tài được cống hiến, được trọng dụng, được bảo vệ khi dám nghĩ, dám làm. Nhà nước cần có cơ chế đặc thù, thí điểm các mô hình đãi ngộ cao cho những lĩnh vực chiến lược. Cần tránh tư tưởng “cào bằng” trong lương thưởng, vì như thế sẽ làm thui chột động lực sáng tạo. Bên cạnh với đãi ngộ vật chất, cần tạo môi trường khuyến khích tự do học thuật, đề cao sáng tạo, tôn trọng ý kiến đa chiều, coi trọng kết quả thực tế. Khi nhân tài cảm thấy mình được tin tưởng, được trân trọng, họ mới toàn tâm toàn ý cống hiến.
Thứ tư, phát huy nguồn lực nhân tài Việt Nam ở nước ngoài. Hiện có hơn 5,3 triệu người Việt Nam sinh sống tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có hàng trăm nghìn trí thức, chuyên gia, doanh nhân thành đạt. Đây là “nguồn lực mềm” vô cùng quý giá, có thể góp phần quan trọng vào sự phát triển đất nước nếu biết thu hút và trọng dụng.
Để làm được điều đó, cần xây dựng cơ chế đặc thù về thu nhập, môi trường làm việc, đề bạt, bổ nhiệm để thu hút, sử dụng nhân tài là người Việt Nam ở nước ngoài. Chính sách thu hút trí thức kiều bào phải thực chất, thông qua các dự án nghiên cứu, các quỹ đổi mới sáng tạo, các chương trình chuyển giao công nghệ. Quan trọng hơn, phải tạo cơ chế để họ có thể đóng góp trí tuệ mà không bị ràng buộc quá nhiều về thủ tục hành chính. Kết nối nhân tài trong và ngoài nước thành một “mạng lưới trí thức Việt toàn cầu” chính là con đường để Việt Nam rút ngắn khoảng cách phát triển, nhanh chóng hội nhập quốc tế.
Thứ năm, khơi dậy tinh thần trách nhiệm, ý thức công dân và khát vọng cống hiến. Nhân tài vừa là người có năng lực chuyên môn, vừa là người có tinh thần trách nhiệm, đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân. Muốn vậy, phải xây dựng văn hóa trọng hiền tài, tôn vinh trí thức, đề cao giá trị đạo đức, khuyến khích tinh thần dấn thân vì Tổ quốc. Sự gắn kết giữa khát vọng cá nhân và khát vọng quốc gia sẽ tạo nên động lực mạnh mẽ, giúp đất nước vượt qua mọi thách thức.
Lịch sử luôn tồn tại khách quan và có thể khẳng định: Trọng dụng nhân tài là then chốt của thành công. Một quốc gia hùng cường không thể chỉ dựa vào tài nguyên thiên nhiên hay vị trí địa chính trị, mà quan trọng nhất là dựa vào trí tuệ con người - những cá nhân có khả năng dẫn dắt, sáng tạo, khai phá con đường mới.
Với tầm nhìn chiến lược đúng đắn, với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị và với khát vọng vươn lên của mỗi người dân, Việt Nam có thể xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài để chinh phục những đỉnh cao phát triển mới. Đây vừa là yêu cầu tất yếu, vừa là con đường ngắn nhất để hiện thực hóa khát vọng một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Tài liệu tham khảo
- Đại Việt sử ký toàn thư (2006), Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tập II
- Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 4
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.