Bản chất “dân sự hóa” quân đội
Theo Thiếu tướng, PGS, TS Nguyễn Bá Dương, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương: “Dân sự hóa” quân đội là thuật ngữ dùng để chỉ xu hướng chuyển hóa quân đội từ lực lượng vũ trang mang chức năng chính trị - quân sự đặc thù sang mô hình tương tự tổ chức dân sự, thông qua việc làm giảm vai trò, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; coi quân đội như một thiết chế trung lập trong đời sống xã hội; chỉ tuân theo pháp luật, không tuân theo sự lãnh đạo của Đảng.
 |
Khối xe - pháo quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam tại Lễ kỷ niệm, diễu binh, diễu hành 80 năm Quốc khánh 2-9. Ảnh minh họa: qdnd.vn
|
Thực chất, nội dung cốt lõi của “dân sự hóa” quân đội bao gồm các quá trình: Thay đổi chức năng quân sự sang chức năng và mục tiêu dân sự hoặc phi quân sự, phi vũ trang, chịu sự kiểm soát, quản lý của tổ chức dân sự. Giảm hoặc loại bỏ tính chính trị và sự lãnh đạo của chủ thể cầm quyền là Đảng Cộng sản, người chỉ huy cao nhất trong quân đội là dân sự, không phải là tướng lĩnh. Phi trung tâm hóa cơ chế chỉ huy, kỷ luật và quản lý quân đội, chẳng hạn biến bộ tổng tham mưu như một tổ chức xã hội, phủ nhận vai trò của cơ quan chính trị và cán bộ chính trị các cấp. Đồng nhất quân đội với tổ chức dân sự về vị trí, vai trò và tính chất hoạt động; đòi công khai các hoạt động quân sự như dân sự. Biến đổi mục tiêu sử dụng lực lượng từ bảo vệ quốc gia sang phục vụ lợi ích phi quốc phòng.
Trên thế giới, quan điểm “dân sự hóa” hay “quốc gia hóa” quân đội, “quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị” thường xuất hiện ở các nước có chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Để tránh quân đội can dự vào các tranh chấp chính trị, các nhà nước tư sản quy định quân đội phải “đứng trên đảng phái”, "đứng ngoài đảng phái", chịu sự chỉ huy trực tiếp của nguyên thủ quốc gia mà không chịu sự lãnh đạo hay chi phối của bất kỳ đảng phái nào. Ở mỗi nước, cách thức thực hiện và nội hàm cụ thể của vấn đề “dân sự hóa” quân đội có sự khác biệt, nhưng điểm chung là khẳng định quân đội phải là lực lượng vũ trang của quốc gia, phục vụ lợi ích đất nước.
Dựa trên “học thuyết phân quyền”, giới lập pháp ở nhiều nước đã ban hành hàng loạt đạo luật với kỳ vọng tách bạch quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng. Trên cơ sở đó, họ tin rằng chế định “dân sự quản lý quân sự” được luật hóa sẽ bảo đảm mọi vấn đề của quân đội đều do lực lượng dân sự quyết định, không liên quan tới bất kỳ đảng phái hay thiết chế quân sự nào.
Ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, đại diện lợi ích của giai cấp và của nhân dân lao động. Vì vậy, quân đội được lãnh đạo trực tiếp bởi đảng của giai cấp công nhân. Chính điều này khiến các nước tư bản lo ngại và tìm cách làm suy yếu vai trò lãnh đạo ấy bằng cách cổ xúy luận điệu “dân sự hóa” quân đội nhằm tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng.
Đối với Việt Nam, đây là một chiêu bài trong chiến lược “diễn biến hòa bình” kết hợp thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Thực chất của luận điệu này nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Về chính trị, chúng phủ nhận vai trò của các tổ chức đảng, đường lối lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Về pháp lý-tổ chức, chúng xuyên tạc rằng Quân đội là công cụ của toàn xã hội, “sự tồn tại của Quân đội là cần thiết để bảo đảm cho hoạt động bình thường của bất kỳ hệ thống xã hội nào. Vì vậy, Quân đội là tổ chức đứng ngoài xã hội và không mang bản chất giai cấp; là lực lượng vũ trang “trung lập về chính trị”, chỉ chịu sự quản lý của các thiết chế dân sự và phải được “dân sự hóa” triệt để.
Mục tiêu của các thế lực thù địch là gây nhiễu loạn nhận thức, lung lạc ý chí, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ; làm sai lệch mục tiêu xây dựng và chiến đấu, tạo ra sự hoài nghi về chức năng, bản chất và vai trò của Quân đội ta; nhạt hóa niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Xa hơn là tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, khiến Quân đội phai nhạt bản chất cách mạng và suy giảm sức mạnh chiến đấu bảo vệ Đảng, Tổ quốc và nhân dân để dễ bề can thiệp, thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Âm mưu, thủ đoạn “dân sự hóa” quân đội
“Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân, do dân, vì dân”, cho nên các thế lực thù địch lợi dụng vào đó để ngụy biện rằng Quân đội chỉ có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Quân đội phải phụng sự nhân dân, do nhân dân chỉ huy, quản lý; Quân đội không phụ thuộc vào một đảng phái nào mà là của chung nhân dân, dân tộc. Chúng còn đưa ra những yêu sách phi lý như đòi công khai toàn bộ vấn đề quân sự, quốc phòng, ngân sách quốc phòng; đòi nhân dân được giám sát và quyết định các vấn đề quân sự; xuyên tạc chủ trương hiện đại hóa Quân đội, bóp méo chức năng và nhiệm vụ xây dựng kinh tế-quốc phòng của Quân đội. Chúng tìm cách gieo rắc lối sống thực dụng, đề cao cá nhân, coi thường kỷ luật, thờ ơ chính trị nhằm từng bước làm phai nhạt lý tưởng và phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ để dễ bề thúc đẩy “tự chuyển hóa” từ bên trong...
Để hiện thực hóa âm mưu đó, các thế lực thù địch đẩy mạnh những thủ đoạn tinh vi, thâm hiểm.
Trước hết, chúng tấn công trực diện vào đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, bóp méo cơ chế Đảng lãnh đạo Quân đội.
Dưới chiêu bài “quân đội quốc gia”, “quân đội phục tùng hiến pháp”, các thế lực thù địch đòi xóa bỏ hệ thống tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ làm công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội. Từ đó, chúng đòi “trao quyền kiểm soát Quân đội” thuần túy cho Quốc hội, Chính phủ như mô hình quân đội các nước tư sản. Chúng còn dẫn chứng những hiện tượng “bề ngoài” để biện hộ cho quan điểm “dân sự hóa quân đội” và “khuyên răn” Việt Nam làm theo, như: Bộ trưởng quốc phòng nhiều nước không phải quân nhân; áp dụng thuyết “tam quyền phân lập”, một số nước đã ban hành luật thể hiện “dân sự quản lý quân sự”, quân đội tách ra khỏi sự ảnh hưởng, chi phối của đảng phái... Để tạo sự mơ hồ, dễ bề chuyển hóa khái niệm này, chúng ra sức tô hồng mô hình quân đội các nước tư sản mà bỏ qua một thực tế rõ ràng ở những nước này, các chính đảng nắm quyền vẫn thông qua người của đảng mình nắm giữ vị trí chủ chốt trong hệ thống chính quyền, chi phối lập pháp, hành pháp, tư pháp và chính sách quân sự, quốc phòng.
Thứ hai, cố tình bóp méo chức năng và nhiệm vụ xây dựng kinh tế gắn với quốc phòng của Quân đội.
Bằng những lập luận phiến diện, đánh tráo khái niệm, các thế lực thù địch quy chụp nhiệm vụ tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế gắn với quốc phòng thành “làm kinh tế thuần túy”, rồi từ đó vu cáo Quân đội “lợi ích nhóm”, “đặc quyền đặc lợi” (?!) Từ đó, chúng phủ nhận những đóng góp quan trọng của Quân đội trong lĩnh vực kinh tế, rêu rao rằng Quân đội đã “đánh mất bản chất cách mạng”, bị “tha hóa bởi kinh tế thị trường” nhằm gieo rắc tâm lý nghi ngờ, phá hoại niềm tin của nhân dân đối với Quân đội.
Thứ ba, trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa, các thế lực thù địch tìm cách cổ xúy lối sống thực dụng, đề cao cá nhân, thiếu trách nhiệm, xem nhẹ kỷ luật, xa rời mục tiêu, lý tưởng, nhằm từng bước làm phai nhạt lý tưởng và phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Đây là thủ đoạn đặc biệt nguy hiểm, bởi nó tác động trực tiếp đến nền tảng tinh thần của cán bộ, chiến sĩ. Một khi những biểu hiện này len lỏi vào đời sống quân nhân sẽ là mảnh đất màu mỡ cho mầm mống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hình thành; đồng thời tạo điều kiện để các tư tưởng thù địch thâm nhập và từng bước phá vỡ sự trong sạch, vững mạnh của Quân đội.
Thứ tư, đối với chủ trương xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc rằng đây là khoản đầu tư “lãng phí”, rằng thời bình và để “chống chạy đua vũ trang”, Việt Nam mở rộng đối ngoại, hợp tác quốc tế không còn nguy cơ xung đột, chiến tranh nên không cần hiện đại hóa Quân đội. Dưới chiêu bài “dân chủ”, chúng đòi đưa các vấn đề quân sự, quốc phòng ra bàn luận công khai để nhân dân giám sát và quyết định. Nhằm gieo rắc hoài nghi và chia rẽ trong xã hội, chúng xuyên tạc rằng ngân sách quốc phòng “quá cao” so với nhiều lĩnh vực dân sinh; phủ nhận tính đặc thù của hoạt động quân sự, đánh đồng Quân đội với một cơ quan hành chính thông thường, biến việc quân sự thành việc của dân sự. Từ đó, chúng kêu gọi cắt giảm ngân sách quốc phòng để “tiết kiệm nguồn lực đầu tư cho phát triển” hoặc huy động đơn thuần các nguồn lực xã hội để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với đề xuất “dân sự hóa hoạt động quân sự”.
Về phương thức, không gian mạng là “mũi tiến công mềm” được các thế lực thù địch khai thác triệt để. Chúng tung tin giả, cắt ghép hình ảnh xuyên tạc về Quân đội; tạo lập tài khoản ảo, tán phát “thư ngỏ”, “kiến nghị”, “tâm thư” với giọng điệu giả danh trí thức để gây nhiễu loạn nhận thức, thao túng dư luận. Mỗi sự cố nhỏ đều bị thổi phồng nhằm gây chia rẽ nội bộ, kích động bất mãn, hạ thấp hình ảnh Quân đội trong mắt nhân dân. Chúng xuyên tạc việc cán bộ, chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn là “diễn”, rằng “tại sao phải mặc quân phục khi giúp đỡ nhân dân, giúp hay chỉ làm màu, khoe mẽ”...
Về lực lượng, các thế lực thù địch móc nối với các phần tử cơ hội, tổ chức phản động trong và ngoài nước, được các kênh truyền thông chống phá như BBC, VOA, RFA... "hà hơi, tiếp sức", lôi kéo những người có nhận thức lệch lạc và một bộ phận cư dân mạng dễ bị kích động để lan truyền tin giả, thông tin độc hại.
Nguy cơ “tự diễn biến” từ vấn đề “dân sự hóa” quân đội
Những âm mưu, thủ đoạn trên nếu không bị đấu tranh và loại bỏ, hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng. Nó thẩm thấu, làm suy yếu từ bên trong đối với vai trò của tổ chức đảng; dẫn đến khoảng trống ý thức hệ, tạo điều kiện cho chủ nghĩa thực dụng, cá nhân chủ nghĩa thâm nhập; bào mòn bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội; hạ thấp hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, giảm sút uy tín và niềm tin của Quân đội trong lòng nhân dân.
Một số người chỉ nhìn thấy lợi ích kinh tế trước mắt mà xem nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; đánh đồng Quân đội với cơ quan dân sự về giờ giấc, chế độ đãi ngộ, rồi thổi phồng trên mạng xã hội, tạo thành những luồng dư luận nhiễu loạn, tác động tiêu cực tới tâm lý xã hội.
Từ sự hời hợt trong nhận thức đến thái độ phủ nhận vai trò, chức năng đội quân chiến đấu chỉ cách nhau một bước nhỏ. Và chính sự lệch lạc này trở thành mảnh đất cho “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”: Giảm niềm tin vào Đảng và con đường xã hội chủ nghĩa; phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; coi Quân đội như “nghề công chức vũ trang”, không phải lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu của Đảng. Bài học về sự tan rã của Liên Xô đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Khi đó, 5 triệu quân nhân Liên Xô đã hoàn toàn thất thủ trước âm mưu “phi chính trị hóa” của kẻ thù, khoanh tay đứng nhìn nhà nước Xô viết-chính thể sinh ra mình sụp đổ. Hay gần đây, sự sụp đổ của chính phủ nhiều nước Bắc Phi-Trung Đông trước sức ép của các cuộc bạo loạn chính trị mang tên “Mùa xuân Arab” cũng có nguyên nhân từ việc mất kiểm soát đối với quân đội.
Một biểu hiện đáng lo ngại của “tự diễn biến” hiện nay là tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Không ít người đánh giá hời hợt, thậm chí giản đơn những biến động nhanh chóng, phức tạp của môi trường an ninh thế giới và khu vực, nơi các nguy cơ xung đột, tranh chấp chủ quyền và cạnh tranh chiến lược luôn tiềm ẩn cả nguy hại trực tiếp lẫn lâu dài. Nhận thức lệch lạc ấy dẫn tới thái độ xem nhẹ vai trò của Quân đội là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh ấy, những “kiến nghị” đòi cắt giảm quân số, giảm ngân sách quốc phòng để dành nguồn lực cho phát triển kinh tế không chỉ đi ngược xu thế chung của thế giới mà còn mâu thuẫn với yêu cầu củng cố sức mạnh quốc phòng, an ninh của đất nước.
Trong bối cảnh nhiệm vụ quân sự ngày càng nặng nề và tác động phức tạp của đời sống xã hội hiện đại, quân nhân nếu không kiên định lập trường, kém tu dưỡng rèn luyện, sẽ bị cuốn vào lối sống thực dụng, hưởng thụ, từ đó từng bước dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các doanh nghiệp, bên cạnh thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng kinh tế, không nên xem nhẹ vấn đề kỷ luật, duy trì môi trường rèn luyện và tu dưỡng phẩm chất của quân nhân. Bởi nếu tư duy kinh tế lấn át tư duy quân sự, kỷ luật dễ bị buông lỏng, hoạt động của doanh nghiệp dễ rơi vào xu hướng “dân sự hóa”. Điều này tạo nguy cơ khiến cán bộ, nhân viên dễ bị tác động bởi cám dỗ vật chất, sa sút trách nhiệm, thiếu rèn luyện, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong tư tưởng và hành động.
(còn nữa)