Bố tôi có người bạn thân là giáo sư toán học, công tác tại một trường đại học lớn. Gần đến ngày 20-11, có qua nhà tôi chơi, khi thấy bố tôi lấy rượu ra, bạn bố tôi vội nói: “Hôm nay không được, để hôm khác, lát mình phải qua nhà thầy cũ để chúc mừng Ngày Nhà giáo.

Có hơi rượu mà nói chuyện với cụ, thất lễ lắm”. Trong khi đó, năm nào vào dịp 20-11, học trò lớp vợ tôi làm chủ nhiệm gần chục năm trước cũng đến nhà tôi, trước “quẩy” tưng bừng, sau rủ cô đi ăn uống, mua sắm, hát hò vui vẻ đến tối mịt mới về.

 Ảnh minh họa / TTXN 

Hai câu chuyện nhỏ kể trên phản ánh những thú vị trong “đạo thầy trò” thời nay. Ở câu chuyện thứ nhất, trong tâm thức và hành động của nhiều người Việt như bạn bố tôi, người thầy luôn có một vị trí rất cao và việc ứng xử, giao tiếp giữa thầy trò phải tuân theo những lễ nghi, phép tắc nhất định.

Lối suy nghĩ ấy, cách hành xử ấy có nguồn cội sâu xa từ văn hóa thời trung đại vốn chịu sự chi phối, ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho giáo khi địa vị người thầy được đặt ngang với vua và đấng sinh thành trong mô hình “quân, sư, phụ”. Trong mô hình ấy, đạo thầy trò nghiêng về người thầy. Người thầy có “quyền lực tuyệt đối” trong mối quan hệ với học trò. Mọi trách cứ, hình phạt của người thầy đối với học trò được xã hội chấp nhận, coi đó là chuyện đương nhiên, bình thường trên con đường rèn luyện học trò thành tài.  

Việc đề cao người thầy quá mức tuy có nhiều điểm tích cực, song cũng có không ít hệ lụy như học trò kính thầy nhưng sợ thầy, việc học rập theo khuôn mẫu, máy móc một chiều, thầy đọc-giảng, trò nghe-chép-nhớ; lời thầy là “kinh thánh”, là “chân lý”, học trò không được phép và không dám phản biện. Hậu quả là trong hàng trăm năm, nền giáo dục nước ta trở nên xơ cứng, lạc hậu, không phát triển như các nước phương Tây vốn đề cao tinh thần bình đẳng, dân chủ, khai phóng trong giảng dạy và học tập.

 Ở câu chuyện thứ hai, với nhiều người, nhất là những người trẻ như các học trò của vợ tôi, nghề giáo tuy cao quý nhưng ở mặt nào đó cũng là một nghề như bao nghề khác. Người giáo viên cũng là người “làm công ăn lương”. Để sống bằng nghề, trụ lại với nghề, họ phải đáp ứng được những quy chuẩn về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Quan niệm này xuất phát từ mô hình giáo dục hiện tại, khi nền giáo dục nước nhà đã có những thay đổi đáng kể trên tất cả phương diện so với thời phong kiến.

Trong mô hình giáo dục hiện nay, đạo thầy trò lại có phần nghiêng về học trò. Vị trí người thầy không còn “bất khả xâm phạm”, cao vời vợi trong mối quan hệ thầy-trò như ngày trước mà chịu sự ràng buộc, chế định của luật pháp, cụ thể là Luật Giáo dục. Người thầy giờ là “người bạn”, “người đồng hành” với học trò, lấy học trò làm trung tâm, tôn trọng tiếng nói, chấp nhận cá tính sáng tạo và sự khác biệt trong suy nghĩ, nhận thức của học trò.

Quan hệ thầy-trò thời nay bình đẳng hơn, thân tình hơn. Nhưng đôi lúc, đôi chỗ giá trị đạo thầy trò tốt đẹp trong quá khứ bị xóa nhòa. Những điểm tích cực đã thấy rõ nhưng mô hình trên cũng có những hạn chế. Việc bảo vệ học trò quá mức đã dẫn đến những hệ lụy đau lòng như người thầy giờ “sợ” học trò, “sợ” phụ huynh học sinh, bị xem nhẹ, coi thường dẫn đến có người chán nghề, bỏ nghề...

Thái quá thường bất cập. Đạo thầy trò dù nghiêng về người thầy hay học trò đều có những “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển của nền giáo dục nước nhà. Chỉ khi nào đạo thầy trò đạt được sự hài hòa, vừa gìn giữ, củng cố địa vị tôn kính của người thầy trong mắt học trò; vừa bảo vệ, khơi dậy và phát huy được năng lực của học trò bằng một tình yêu vô bờ bến của người thầy thì khi ấy nền giáo dục nước nhà mới thật sự phát triển, đáp ứng được kỳ vọng lớn lao của toàn xã hội.

TS ĐOÀN MINH TÂM