1. Nhà báo Nguyễn Thanh kể: Ngày 30-4-1975, lúc Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì ông chưa kịp có mặt ở dinh Độc Lập. Hơn 12 giờ trưa, Nguyễn Thanh vẫn còn đang ngơ ngác ở ngã tư Hàng Xanh. Bỗng có một bác lái xe hon-đa đến hỏi: “Chú giải phóng chắc lạc đơn vị”. “Dạ, tôi là ký giả muốn vào dinh Độc Lập mà chưa biết đường”. “Chú lên xe tôi đưa đi”.

Nguyễn Thanh đến cổng dinh Độc Lập, xuống xe rồi chạy biến vào bên trong. Nhớ ra là mình chưa cảm ơn bác lái xe, ông chạy quay ra thì chiến sĩ gác cổng nói là bác đã đi rồi.

Người dân chào đón Quân giải phóng tiến vào tiếp quản thành phố Sài Gòn. Ảnh tư liệu 

Dân Sài Gòn với cách mạng, với bộ đội giải phóng trong giờ phút chiến thắng đều thổ lộ tình cảm hết mình. Những ngày đó, không những nhà báo-chiến sĩ Nguyễn Thanh mà tất cả bộ đội đều được đón tiếp niềm nở và được giúp đỡ nhiệt tình vô điều kiện.

2. Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Huy Hiệu có lần kể rằng, trong cuộc đời binh nghiệp của mình, ông không bao giờ quên được hình ảnh má Sáu Ngẫu. Ngày 29-4-1975, theo lệnh của cấp trên, Đơn vị 27 có nhiệm vụ thọc sâu vào mở cửa Lái Thiêu, tiến vào giải phóng Sài Gòn nhưng chỉ huy chưa nắm được địch và tình hình khu vực. Nhá nhem tối ngày 29-4, đơn vị đã đến Búng. Cấp trên cho hay, ở chợ Búng có một gia đình cơ sở cách mạng. Đó là nhà má Sáu Ngẫu. Đồng chí Nguyễn Huy Hiệu cùng bộ phận trinh sát đã tìm được má Sáu Ngẫu. Nhận ra là người của ta, má mừng quýnh lên. Má kể, chồng má là ông Hai Nhượng, bị địch bắt và giết hại hồi Tết Mậu Thân. Má đề nghị đơn vị có yêu cầu gì thì cứ nói. Các anh đề nghị má cho biết tình hình địch và địa hình, đường đi vào quận lỵ Lái Thiêu. Má vào nhà lấy tấm bản đồ đô thành Sài Gòn, rồi chỉ cho các anh các trục đường, các vị trí đóng quân của địch và cho biết tình hình... Rồi má “xin” trực tiếp dẫn đường cho đơn vị. Thấy má đã ngoài 60 tuổi, lại đêm hôm mưa gió, các anh động viên: “Chúng con sẽ quét sạch bọn địch ở Lái Thiêu, trả thù cho má và bà con cô bác”. Sau trận đánh, tấm bản đồ được đồng chí Nguyễn Huy Hiệu giữ lại làm kỷ niệm. Cứ đến ngày kỷ niệm 30-4, chiến sĩ các thế hệ Đơn vị 27 lại truyền nhau câu chuyện năm xưa về má Sáu Ngẫu với cái tên rất đỗi thân thương trìu mến “Bà má tham mưu” của đơn vị.

3. Đồng chí Hai Nhựt-bí danh của đồng chí Lê Thanh Hải, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, kể rằng, những ngày cuối tháng 4-1975, ngay cả người dân vùng lõm đã hướng hết về phía cách mạng, chỉ mong ngày giải phóng, thống nhất đất nước đến gần hơn. Ngày 25-4-1975, anh Hai Nhựt khi đó là Ủy viên Ban Cán sự quận Phú Tân Sơn từ vùng căn cứ khẩn trương cùng đồng đội theo cánh A di chuyển vào thành phố. Một việc được các anh tập trung nhất là chuẩn bị cờ giải phóng. Vải cần để may cờ phải 3 màu và được người dân mua nhiều nơi để qua mắt địch, màu xanh mua ở Chợ Lớn, màu đỏ mua tại chợ Ông Tạ, màu vàng mua ở Sài Gòn… Rồi từ đó, hàng đêm cờ giải phóng được may liên tục nhiều nơi giữa khu phố Bảy Hiền. Không chỉ cơ sở cách mạng mà còn có cả người nhà của quân nhân chế độ cũ cũng tham gia may cờ. Lá cờ to nhất mà nhóm anh Ba Lớn kéo trên Bệnh viện Vì Dân (nay là Bệnh viện Thống Nhất) là do vợ của một quân cảnh chế độ Sài Gòn nhận may. Những ngày tháng Tư ấy, Bảy Hiền sục sôi như đang ở giữa vùng giải phóng, dù đồn bốt vẫn vây quanh. Khoảng 15 giờ ngày 30-4-1975, lực lượng của anh Hai Nhựt và các đồng chí khác đã về đến Bảy Hiền. Nơi đây bà con đã tập trung rất đông để chào đón những đứa con giải phóng. Bữa mì Quảng mà bà con đãi các anh hôm ấy bây giờ nhớ lại anh Hai Nhựt vẫn cho rằng đó là tô mì rất ngon và cảm động nhất vì tình cảm và tấm lòng của đồng bào dành cho cán bộ cách mạng không thể nào lột tả hết trong những giờ phút ấy!

Đọc lại những dòng hồi ức này, càng hiểu hơn ý nghĩa của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Khát vọng độc lập dân tộc và CNXH là lá cờ đoàn kết dân tộc ta muôn triệu người như một, cùng hướng về ngày toàn thắng.

Dương Xuân Phượng