Đi tìm
Chiếc xe Gát 66 của Đoàn B37-Quân khu 4 chở chúng tôi xuất phát, tiến về địa phận bản Cuôi, xã Hướng Lập, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị lúc trời vừa hửng sáng. Nơi đây được nhân dân báo tin tìm thấy 5 phần mộ liệt sĩ được mai táng trong rừng sâu.
Xe chạy theo con đường Hồ Chí Minh lịch sử. Mùa đông. Sương mù bao phủ, trước mắt chúng tôi hiện lên như một đại dương mênh mông. Căng hết mắt ra mà chẳng thấy đường, thấy rừng ở đâu. Ánh sáng vàng của cái đèn chiếu sương mù hoạt động hết công suất cũng chỉ xuyên qua dăm, bảy mét. Chiếc xe cứ mò mẫm từng đoạn thật khó chịu.
Ngồi trên xe, bác Hùng say sưa kể cho chúng tôi nghe chuyện bỏ nhà vào rừng tìm quân giải phóng năm 1963, đến chuyện bác cùng đơn vị chủ lực miền tây Quảng Trị đánh hàng trăm trận lớn nhỏ với Mỹ, ngụy, mở rộng vùng giải phóng bảo vệ đường Hồ Chí Minh; rồi đoàn phó Đoàn 584 quy tập mộ liệt sĩ. Những câu chuyện của bác làm chúng tôi quên đi chặng đường ngoằn nghèo, khúc khuỷu, lên đèo xuống thác uốn lượn theo những sườn đồi mà chiếc xe phải gánh chịu.
Suốt 3 giờ đồng hồ băng rừng, vượt suối, chiếc xe dừng lại ở trung tâm xã Hướng Lập. Gửi lại xe ở đồn Biên phòng 605, chúng tôi chuẩn bị hành lý để hành quân đến đích. Người mang dụng cụ, người mang tư trang, tất cả nằm gọn trong chiếc ba lô, trông giống như những chiến sĩ Trường Sơn năm xưa lên đường chiến đấu. Lần theo lối mòn nhỏ. Người dẫn đường là bác Hùng, vì đây là con đường giao liên huyết mạch nối liền Vĩnh Linh đến với đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử mà trong chiến tranh bác Hùng thuộc như lòng bàn tay.
Vượt qua đồi nhỏ, trước mắt chúng tôi hiện lên con sông Sê-băng-hiêng hung dữ. Mấy chiến sĩ trẻ thấy vậy, dừng lại vò đầu, bứt tai.
Con đường mòn đã bị dòng nước nhấn chìm. Lút quá đầu gối, cái lạnh của mùa đông thấu da, thấu thịt. Hai cái chân bì bà, bì bõm, ngập trong nước hàng giờ đồng hồ, tê tái. Anh Dũng bổ nhào về phía trước, người ướt sũng như chuột lụt. Cái móng chân tước gần hết, đau quá, kêu lên ơi ới.
Đi hết một khúc sông, cả đoàn rẽ sang khu rừng rậm. Loay hoay mãi chẳng tìm thấy lối đi, chỉ có một đường ống nhỏ, tối om mù mịt; lưỡng lự mãi không ai dám bước chân vào. Bác Hùng đi lại, sau một hồi suy nghĩ và quan sát, Bác nói:
- Đúng chỗ này đấy!
- Sao lại như đường hầm thế này? Anh Dũng hỏi.
- Do lâu ngày chỉ có thú rừng đi nên lối mòn trở thành cái ống như thế đấy.
Tôi cúi người, đặt bước chân vào, một cảm giác rùng rợn gai cả người. Tối om, mùi ẩm mốc bốc lên nồng nặc, sên vắt bấu cả vào người tứa máu, thậm chí có cả rắn rết xuất hiện bất cứ lúc nào.
Thoát khỏi đường hầm, đi tiếp dăm cây số, lúc này đã đến được khu rừng có sơ đồ mộ chí các liệt sĩ. Không gian thật bình yên. Có cảm giác chưa từng có ai đặt chân đến đây từ sau cuộc chiến tranh. Mọi người chia nhau tỏa đi các hướng để tìm phần mộ liệt sĩ. Bỗng có tiếng kêu lớn phá tan bầu không khí tĩnh mịch ấy, từ hướng đồng chí Sinh.
Đón lên
- Đây rồi! Đây rồi!... Các anh ơi!
Lúc này lòng ai cũng như ấm lại, tất cả hớt hải chạy về phía Sinh. Sau một lúc trấn tĩnh như không tin vào mắt mình, tôi thốt lên:
- Đúng rồi! 5 phần mộ được mai táng gần nhau thành một hàng thẳng, từ suối lên đỉnh đồi, mỗi ngôi được ghép với lớp đá nhỏ thành hình chữ nhật rất cẩn thận và chu đáo. Chúng tôi đứng lặng người kính cẩn trước linh hồn các liệt sĩ.
Bác Hùng thắp nén nhang khấn vái linh hồn các liệt sĩ. Lúc này trời bắt đầu đổ mưa rả rích, cái lạnh thấu da, thấu thịt của mùa đông cùng với hạt mưa thấm vào người như những nhát dao cứa đứt từng thớ thịt. Kéo căng cái bạt buộc vào cây thành cái lán che mưa, chặt cây tre, cây nứa khô buộc vào thành bó đốt lên cho ấm. Nghỉ tay một lát, tranh thủ ăn vội vài bát mì tôm và uống chén nước, bác Hùng giục chúng tôi:
- Tranh thủ làm thôi các cháu ơi! Giờ đã quá trưa rồi, kẻo trời tối bốc không xong phải ngủ lại rừng trong đêm đấy.
Chúng tôi cùng bắt tay vào việc. Mọi người cứ lặng lẽ đào hết lớp đá, đến lớp đất cứng rồi đến lớp đất “trộn”. Bỗng Sinh kêu lên:
- Có rồi! Có rồi!... các anh ơi!
Mọi người lặng đi, không ai giấu được niềm xúc động chạy ùa về ngôi mộ. Anh Dũng lấy tay khơi nhè nhẹ. Hình hài một liệt sĩ nằm trong bao tử sĩ lộ dần. Thật thiêng liêng và kính trọng, chúng tôi đứng vây quanh liệt sĩ lòng như muốn nấc. Các anh nằm đó bao nhiêu năm trời trong cái bao ni lông tử sĩ, hôm nay tìm thấy đón các anh về với tất cả tấm lòng thương nhớ, chờ đợi lẫn kính trọng, thì hài cốt các anh không còn nguyên vẹn nữa.
Bác Hùng bước xuống nhẹ nhàng mở bao tử sĩ ra, cẩn thận lấy rượu và cồn tắm, rửa cho liệt sĩ, rồi nhẹ chuyển lên theo thứ tự từng chi tiết của liệt sĩ đặt vào tấm vải đỏ trải trên tấm ni lông ở miệng hố. Di vật gồm một đôi quân hàm thiếu úy kết hợp, một dây thắt lưng nhỏ và một số cúc áo đã bị thời gian ăn mòn loang lổ.
Rồi ngôi thứ 2. Không được nguyên vẹn đầy đủ như ngôi thứ nhất, các mẩu xương của cơ thể vẫn còn. Di vật gồm một võng dù đã bị đứt từng khúc, một dây thắt lưng nhỏ và một số cúc áo. Mọi người ngậm ngùi mong chờ bác Hùng có đọc tên hay dòng địa chỉ của ai đó không, nhưng tất cả đều vô vọng...
Bác Hùng, ngồi tựa mình vào một thân cây, cố giấu đi niềm cảm xúc đang dâng trào. Tay cầm thắt lưng là di vật của hai liệt sĩ, bác nói:
- Đây là hai liệt sĩ nữ.
- Sao bác biết? Tôi ngậm ngùi hỏi:
- Thắt lưng này là của nữ, nó nhỏ hơn thắt lưng của nam và cả những cúc áo kia cũng là của nữ.
Ngôi thứ 3, một cảnh tượng hết sức thương tâm, tất cả những mẩu xương sót lại của liệt sĩ đã bị mạch nước ngầm làm xáo trộn. Bác Hùng tẩn mẩn nhặt từng cái đặt vào đúng từng vị trí hình thể của liệt sĩ, di vật duy nhất là chiếc gương tròn đã bị thời gian làm cho phai ố. Chúng tôi chuyển tay nhau ngắm nghía kỷ vật của liệt sĩ. Sinh hỏi:
- Là liệt sĩ nữ hả bác.
- Không phải. Đây là liệt sĩ nam, vì xương của nam to và dài hơn của nữ. Chiếc gương kia chắc là của người yêu tặng.
Ai cũng ngấn lệ xót thương, không biết người yêu của anh ở đâu đó có biết không?
Ngôi thứ 4, chỉ còn lại một ít mẩu xương nhỏ chưa kịp phân hủy và nắm đất đen, tất cả đã bị thời gian biến thành đất, không còn để lại một di vật nào. Lòng chúng tôi quặn đau. Cả khu rừng chìm theo nỗi đau ấy.
Đến ngôi mộ thứ 5 thì màn đêm từ từ buông xuống bao phủ toàn bộ khu rừng ngút ngàn sâu thẳm, tiếng chim tu hú gọi bầy từng đợt ngân lên nghe rờn rợn. Trời đổ mưa nặng hạt hơn. Quần áo chúng tôi ướt sũng, cái lạnh của màn đêm tê tái cả người. Lấy trong ba lô ra đèn pin, đèn ắc quy cá nhân và đốt thêm lửa làm bừng sáng cả khu rừng tối tăm mù mịt, làm cái lạnh của màn đêm cũng như ấm lại. Và ngôi thứ 5, từng mẩu xương nhỏ vụn được bác Hùng cần mẫn nhặt lên đầy đủ, kể cả nắm đất bị phân hủy. Tôi nhìn vào mà lòng tái tê ứa lệ. Hình hài một con người đấy ư? Chỉ còn mấy mẩu xương vỡ vụn và nắm đất đen phân hủy như thế này thôi sao? Cả 5 ngôi mộ đều “chưa biết tên”. Các anh, các chị đã nằm lại núi rừng ròng rã hơn 30 năm, hôm nay chúng tôi đón các anh, các chị về với gia đình, bạn bè, đồng đội, nhưng biết báo tin cho ai đây?
Đưa về
Bác Hùng quay mặt cố giấu những giọt nước mắt đang lăn dài trên khuôn mặt già nua phúc hậu. Giọng bác nấc lên nói với chúng tôi:
- Các cháu ạ! Dù chưa biết tên, nhưng còn di vật là còn hy vọng. Một chuyến đi đón được 5 hài cốt liệt sĩ đầy gian nan, vất vả, nhưng chưa thấm vào đâu so với bác Hùng và đồng đội của bác. Gần 20 năm qua bác cùng các đồng chí trong hội CCB thị trấn Khe Sanh cất bốc được 1.451 hài cốt liệt sĩ, trong đó có 216 mộ có tên; còn lại chưa biết tên, phần nào làm vơi đi những giọt nước mắt của ông bố, bà mẹ, chị vợ và những đứa con trong thương nhớ, xót xa, chờ đợi...
Khi tôi viết những dòng này thì những phần mộ của các liệt sĩ đã được an táng ở nghĩa trang huyện Hướng Hóa. Hy vọng những người còn sống sót sau chiến tranh nhớ được sơ đồ mộ chí và tên, tuổi của các liệt sĩ báo cho gia đình người thân của họ. Xin liên hệ gửi về trang Tiếp lửa truyền thống, báo Quân đội nhân dân, hoặc phòng Chính trị Đoàn 337-AK4 (053.780.665); phòng Lao động-Thương binh-Xã hội huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
NGUYỄN ANH TUẤN