Anh Đoàn Văn Tá của chúng tôi sinh năm 1941. Lên 9 tuổi anh đã phải đi cày cấy thuê. Người bé "loắt choắt" nên anh cứ phải vác cái bừa chổng ngược lên trời để răng bừa không vướng mặt đất. Anh thuộc “tính nết” từng chân ruộng ở đồng làng. Những năm chiến tranh chống Mỹ, thanh niên xóm Độc Lập (Đại Đồng, Tứ Kỳ, Hải Dương), có cả em trai anh, đều lần lượt xung phong ra trận. Riêng với anh, xã báo cáo lên trên để anh ở lại vì: "Hậu phương rất cần một đội trưởng sản xuất năng nổ, quyết đoán và thạo việc nông nghiệp như anh".

Ở nhà, anh phải lo chăm sóc mẹ già, vợ yếu, 4 đứa con thơ. Ngõ bên này là gia đình chú ruột, ngõ bên kia là gia đình cậu em. Nhà nào cũng có 2 người đi bộ đội và lóc nhóc trẻ con. Anh Tá trở thành trụ cột của 3 gia đình chúng tôi và cả xóm giềng nữa.

Chúng tôi lên đường nhập ngũ, hay trả phép trước khi đi B, anh đều đạp xe đèo từng đứa đến địa điểm quy định của đơn vị, dặn dò các em: "Đừng lo gì, ở nhà đã có anh!”. Sớm lửa, tối đèn, từ việc trông nom đồng áng, chạy thóc cơn mưa, bắt lợn trong chuồng cân cho hợp tác xã, lợp nhà, tát ao, ngâm tre… cho tới đưa người ốm đi bệnh viện, anh đều cáng đáng. Một lần, anh chuyển chiếc bể chứa nước giúp hàng xóm, thiếu đồ dùng, suýt xảy ra tai nạn. Thế là, anh chủ động mua sắm những vật dụng mà thời ấy nhiều nhà không có, như: xà beng, thang dài, câu liêm, đèn bão, đèn pin, kìm, búa… để sẵn sàng khi bà con cần đến.

Với mọi công việc của tập thể, anh Tá "nổi lên" như một cánh tay chủ lực. Hình như trong anh lúc nào cũng sôi sục ý nghĩ: “Phải sống xứng đáng với người xông pha ngoài tiền tuyến”. Có những đêm tổ chức canh nước đổ ải, đến rạng đông anh lại về trông nom việc chở thóc thuế đi nhập ở tỉnh. Đận nước lụt tháng 7-1971, anh "chủ công" trong tổ thuyền nan của hợp tác xã đi giúp bà con sơ tán, tiếp tế lương thực. Anh còn "xông vào" tham gia phục vụ chiến đấu phòng không, hộ đê chống lụt. Anh cũng tích cực vận động bà con giúp đỡ các gia đình neo đơn...

Dù bận thế nào đi nữa, anh Tá vẫn dành thời gian viết thư cho chúng tôi. Tôi còn giữ những lá thư giấy rơm, mực tím. Trong đó, anh kể chuyện quê nhà sản xuất và công tác ra sao, bắt phi công Mỹ thế nào… rồi lại dặn chúng tôi: “Cứ yên tâm, ở nhà đã có anh!”. Tôi không ngăn nổi những giọt nước mắt khi đọc thư anh viết. Ngày thống nhất đất nước, anh mổ gà chiêu đãi những đứa em "đại thắng" trở về. Không bao giờ anh kể công của mình.

Bây giờ anh Tá của chúng tôi đã gần 70 tuổi. Anh vẫn như cây trụ giữa nhà. Chúng tôi ở cơ quan về, việc làng, việc họ, gia phong tập quán… nhiều thứ không thật tỏ, lại tìm đến anh để được chỉ dẫn. Mỗi lần được nghe anh "thuyết giảng", chúng tôi lại níu lấy vai anh, cười hề hà và đồng thanh nói: "Đúng là... ở nhà đã có anh!".

PHẠM XƯỞNG