Mùa đông ở Tây Bắc thường lạnh lắm. Và sương thì nhiều vô kể. Sương giăng đỉnh núi, sương là là dưới mái nhà, sương mù trắng đường băng. Có hôm sương ken dày, dù đã đến giờ làm việc, người nọ cách người kia chỉ dăm mét mà chỉ nhận được nhau qua giọng nói. Cái lạnh làm cho mùa xuân nơi đây dường như đến chậm hơn trên những cánh hoa đào nở muộn.
Trong sương mù nơi xứ lạnh, chúng tôi vẫn cảm thấy ấm lòng. Bộ đội mình bảo, người Tây Bắc sống thật và tình nghĩa lắm. Còn chúng tôi thì thấy thêm rằng, cả những người lính đóng quân lâu ngày trên Tây Bắc thì dường như cũng thành người Tây Bắc rồi.
Chẳng thế mà thượng tá Lương Quốc Cường sáng tác những bài hát rất hay về Yên Bái. Hơn hai chục năm gắn bó với Yên Bái, với lau trắng, rừng xanh, với tình người sâu nặng, không yêu mảnh đất này sao được? Các anh nói, lên Yên Bái rồi thì ngại về xuôi. Ấy là nói vậy cho vui chứ bộ đội Tây Bắc không về ăn Tết thì thể nào người dưới xuôi năm nào chẳng lên trên ấy. Anh Nguyễn Hồng Hải kể cho chúng tôi nghe chuyện ăn Tết của gia đình cái năm mà vợ và con anh lên đơn vị mà cả người kể, người nghe đều cười... vui như Tết. Vợ và con lên thăm, anh vẫn thường xuyên trực chiến ở ngoại trường, nên hai mẹ con đành… hai mình ở trong nhà khách đơn vị. Anh lên Yên Bái năm 1982, hơn hai chục năm rồi cưới vợ mà vợ chồng, con cái có được bên nhau bao lâu? Khi lên đơn vị rồi thì chị hiểu anh hơn…
Người mới lên Yên Bái một đôi lần đã hiểu vậy, huống chi người trong cuộc. Trung tá Nguyễn Văn Vinh là một trong những người có thâm niên lâu năm nhất với sân bay Yên Bái. Được đi đào tạo ở Liên Xô về nước năm 1983, khi mới 24 tuổi, anh được phân công lên C31 với lời động viên của các thủ trưởng: ở đó một thời gian sẽ về Hà Nội. Thế rồi, 7 năm, anh vẫn ở Yên Bái. Thủ trưởng lên thăm, anh nhắc lại "lời hứa" khi xưa, thủ trưởng cười: "Có muốn về Hà Nội?". Anh vui vẻ: "Muốn chứ ạ, nhưng ở lại đây cũng được ạ". Thế là anh đã ở lại Yên Bái. Gắn bó với đơn vị từ thuở còn nhà tranh, vách đất, đã trải qua những tháng ngày khó khăn, vất vả nhất. Bây giờ C31 đã có một cơ ngơi khá khang trang, ở lâu cũng thành quen và anh thấy yêu mảnh đất vùng cao. Anh phi công quê Hà Nội chính gốc này giờ đã gần 50 tuổi. Thời gian anh sống ở Yên Bái đã bằng nửa tuổi đời. Anh yên tâm ở lại Yên Bái, dù rằng bố, mẹ, vợ con vẫn đang sống dưới Hà thành.
Có phải cũng bởi yên tâm công tác mà nhiều phi công lên Tây Bắc, khi đã "lạc nghiệp" thì cũng "an cư" tại đây luôn. Có anh lấy vợ người Yên Bái. Có người đưa vợ con ở quê lên Yên Bái xác định đời đời kiếp kiếp gắn bó cùng Tây Bắc. Phi công trẻ Nguyễn Trường Nam ra trường năm 2000, đã cưới vợ và có con gái hơn hai tuổi. Anh vừa mua một căn hộ tại xã Nam Cường bằng số tiền hai vợ chồng chắt chiu dành dụm được. Tây Bắc đã thực sự trở thành quê hương của anh.
Lại nói đến những phi công trẻ. Có lẽ ít sân bay nào nhiều phi công trẻ như ở Yên Bái. Họ trẻ thật, nhưng dù trẻ thì niềm đam mê được bay thì đâu có phụ thuộc vào tuổi tác! Ngày nào, tháng nào chưa được bay là thấy nhớ "nghề" da diết, mỗi khi nghe tiếng máy bay là thấy lòng thổn thức khôn nguôi.
Quả là không ai hiểu phi công bằng những người trong cuộc. Tuy nhiên, "người trong cuộc" ở sân bay này nói riêng và cả các sân bay khác nữa, thì nhiều lắm. Một ban bay là sự chung sức, chung lòng của rất nhiều con người, đủ mọi thành phần, từ phi công, thợ máy đến những người làm công tác hậu cần. Riêng đối với các thợ máy, các phi công thì họ có một tình cảm rất đặc biệt. Trong câu chuyện với chúng tôi, các phi công nhắc đến những người thợ có đôi bàn tay vàng với tình cảm như anh em ruột thịt. Trung tá Lê Đức Minh, bình thường thì rất hay đùa tếu, nhưng khi kể chuyện về thợ máy, tôi cảm nhận được sự chân thành và cả niềm biết ơn lắng trong từng lời của anh. Còn thượng tá Lương Quốc Cường thì thành thật: "Tôi vẫn đang ấp ủ một bài hát cho những người lính thợ đường băng, cho dù là muộn"…
Hồng Linh