QĐND Online - Cuộc đời quân ngũ và những năm tháng chiến tranh sống trong tình yêu thương của đồng đội và bà con đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đã tiếp thêm cho thương binh Nguyễn Quang Chiến nghị lực trong cuộc sống. Từ hai bàn tay trắng ở miền quê cát cháy Quảng Trị đi vào Gia Lai lập nghiệp, đến nay anh đã xây dựng một trang trại liên hoàn VAC có đầy đủ tiện nghi sinh hoạt, xe công nông, xe máy để đi làm với thu nhập trên 500 triệu đồng/năm.

Chọn Gia Lai để lập nghiệp

Anh thương binh Nguyễn Quang Chiến

Sinh và lớn lên ở Vĩnh Sơn,Vĩnh Linh, Quảng Trị, học xong cấp 3, Nguyễn Quang Chiến lên xã đăng ký xin nhập ngũ. Đầu tháng 12-1977, anh bắt đầu huấn luyện ở Trung đoàn 6, Tỉnh đội Bình- Trị -Thiên (nay là Bộ CHQS tỉnh Quảng Trị). Đơn vị của anh ban đầu đóng quân tại Tây Nguyên, sau đó chuyển vào biên giới Tây Nam thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại nước bạn Cam-pu-chia. Tại mặt trận 479 đêm ngày không ngớt tiếng súng này, đơn vị anh (Đoàn 174- Quân khu 7)tiến đánh qua Xin Xê Pôn, Xiêm Riệp, rồi tiếp tục tiến đến Bat Tam Boong gần biên giới Thái Lan.

Tháng 3-1980, chuẩn bị cho trận tập kích vào cao điểm 175, sát biên giới Thái Lan, nơi cố thủ của bọn tàn quân Pôn Pốt, trên đường đi trinh sát địa hình, không may anh vướng mìn và bị thương ở chân. Sau khi vết thương bình phục, anh xin bác sĩ cho về đơn vị tiếp tục công tác. Đến năm 1983, do vết thương tái phát nhiều lần, sức khoẻ yếu, đơn vị giải quyết cho anh ra quân.

Hành trang trở về quê của anh thương binh Nguyễn Quang Chiến chỉ vẻn vẹn 3 bộ quần áo và một ít tư trang cá nhân. Vùng đất đỏ Tây Nguyên như kết nối duyên nợ; sau 10 ngày nghỉ ngơi, thăm hỏi bà con, Chiến quyết định xin phép gia đình cho anh vào Gia Lai lập nghiệp.

Những ngày tháng đầu, giữa vùng đất lạ, đi xin việc thật gian nan. Nhiều đơn vị, cơ quan hứa nhận nhưng chờ mãi cũng chẳng thấy có quyết định hay giấy tiếp nhận. Không nản chí, anh Chiến lại tiếp tục gõ cửa xin việc làm và cuối cùng lãnh đạo nhà máy chè Biển Hồ (Gia Lai) đã nhận anh vào làm bảo vệ, phụ trách mảng quân sự của nhà máy.

Tình yêu chấp cánh cho ước mơ

Cảm thông với những khó khăn bước đầu của anh thương binh mới đến, chị Nguyễn Thị Hải công nhân làm việc trong nhà máy đã đem lòng yêu anh. Đến cuối năm 1984, họ làm đám cưới. Để giúp đỡ đôi vợ chồng mới cưới, anh em công nhân tổ quân sự của nhà máy đã vào rừng chặt cây, cắt tranh dựng cho anh chị một ngôi nhà nho nhỏ để có chỗ ăn nghỉ…Nhưng nghiệt nỗi, khí hậu ở Tây Nguyên, nắng thì như cháy da người, còn mưa thì tầm tã suốt cả ngày đêm. Ngôi nhà tranh của anh chỉ chống đỡ với thiên nhiên được một thời gian ngắn, sau đó nắng thì xuyên qua mái tranh như bóng lá, khi mưa thì nước lại tranh nhau rớt xuống nền nhà. Nhiều đêm vợ chồng nằm trong mưa lạnh, mà ước được một mái nhà tôn che mưa, nắng lâu dài.

Để cải thiện kinh tế gia đình, anh Chiến quyết tâm học nghề nuôi ong. Từ 10 đàn ong lúc đầu, rồi lên 25 đàn, sau đó anh Chiến nhân rộng quy mô nuôi lên tới 300 đàn. Thu nhập một năm cũng được 20 triệu đồng, “nhiệm vụ” đẩy lùi cái đói nghèo anh đã thành công. Từ nhà tranh vách đất, vợ chồng anh Chiến đã mua xe máy, ti vi và làm được nhà xây, mái lợp tôn kẽm thực hiện được mơ ước ban đầu sau những đêm mưa nước dột vào nhà.

Nhưng đẩy lùi được cái đói, cái nghèo mới chỉ là bước đầu, còn phải tiến lên “ăn ngon, mặc đẹp”. Năm 1995, khi nhà máy có chủ trương trồng chè “liên kết”, nhà máy cho vay vốn, cấp đất “có thưởng”, anh Chiến là người đầu tiên đăng ký thực hiện và vận động anh chị em công nhân cùng thực hiện. Chủ trương đúng, công nhân thực hiện nghiêm túc, “cả hai” đều thắng lợi, đời sống công nhân bắt đầu được nâng cao. Sau này, chủ trương trên đã được nhiều nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên vận dụng, nhân rộng. Đây được coi là một chủ trương “hợp lòng dân”, thu hút người lao động.

Năm 1995, khi cà phê xuống giá, nhiều gia đình thua lỗ nặng, nợ ngân hàng chồng chất, nhiều hộ dân đã chặt cà phê và trồng các loại cây khác để nhanh lấy lại vốn. Anh đến một số địa phương, vận động chính quyền cùng bà con đừng chặt bỏ cây cà phê, nên trồng xen kẽ các loại cây khác, như bời lời, bí đỏ, bắp lai… theo mô hình “lấy ngắn nuôi dài”. Khi giá cà phê ổn định trở lại, nhiều hộ dân nghe theo lời anh đã “trúng mùa”, sản phẩm làm ra được giá, cuộc sống ổn định. Sau đó giá cà phê lại tăng cao, nhiều người không những trả hết nợ, mà còn giàu lên. Anh thương binh Nguyễn Quang Chiến đã được dân làng và anh em công nhân cảm phục, uy tín và chất lượng công việc từ đó cũng được nâng lên.

Có đất, có tiền thu được từ nuôi ong, cà phê, bán heo, bò…, năm 2000, vợ chồng anh tập trung làm trang trại. Để thuận lợi cho việc đi lại và giao thương hàng hoá, vợ chồng anh vận động một số hộ gia đình xung quanh cùng chung vốn đầu tư làm đường “kết nối” liên thôn, mời chuyên gia từ thành phố về xây lắp “thuỷ điện nhỏ”. Đến nay, trang trại của anh đã đứng vững giữa “nền kinh tế thị trường”, sản phẩm làm ra đến đâu, tư thương tiêu thụ đến đó. Trừ chi phí cho đầu tư trở lại, mỗi năm gia đình anh Chiến cũng thu nhập trên 500 triệu đồng. Đứa con đầu của anh đang học năm thứ ba Đại học ở Qui Nhơn, hai cháu sau đang học cấp 3 tại thành phố Pleiku (Gia Lai), kết quả rất tốt, là niềm vui, hạnh phúc của vợ chồng anh.

Trao đổi với chúng tôi, ông Ngô Ngọc Nghiềm – Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Nghĩa Hưng, huyện Chư Pãh, tỉnh Gia Lai cho biết: “Trong số 140 Cựu chiến binh trong xã, thì anh thương binh Nguyễn Quang Chiến là người năng nổ, nhiệt tình công tác Hội và là người có bản lĩnh, thực sự là người “tuy tàn, nhưng không phế”. Chúng tôi dự kiến sẽ cho các hội viên tham quan trang trại của gia đình anh để phát triển nhân rộng mô hình trong thời gian tới”.

Bài và ảnh: Lê Quang Hồi