QĐND - Sau hơn 2 giờ đồng hồ từ thành phố Vinh về thăm gia đình, tôi chưa kịp nói chuyện với người thân câu gì, thì bỗng dưng nghe con Mích sủa lên mấy tiếng rồi cứ chạy đi, chạy lại, cái đuôi ve vẩy, miệng kêu ứ… ứ… Từ dưới bếp, mẹ tôi nói vọng lên: “Thằng Chung chứ ai. Vào nhà đi con… có bác Nam về chơi đấy”.
 |
Bà Kha cùng đứa con tật nguyền. |
Con Mích được đà nhảy cẫng lên, chạy phốc ra ngoài, quấn quýt. Thấy tôi có vẻ ngỡ ngàng, mẹ tôi nói: “Khổ lắm con ạ! Thằng Chung con dì Kha đó. Từ lúc lấy chú Thanh cho đến khi có giấy báo tử, chính quyền tổ chức lễ truy điệu, nhưng dì Kha vẫn không tin là chồng mình đã hy sinh. Chẳng hiểu sao hồi đó, dân làng cứ cho rằng chú Thanh là bộ đội đặc công, nên họ chỉ báo tử giả để giữ bí mật cho chú hoạt động trong lòng địch. Rồi dì Kha cứ phấp phỏng hy vọng, chờ đợi. Thế nhưng sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975), trong đoàn quân chiến thắng trở về, không thấy bóng dáng chú Thanh, dì Kha mới tin là sự thật. Một thân, một mình nuôi mẹ già đau yếu, số phận đã vất vả, lại càng vất vả hơn. Khi dì quyết định có một đứa con để vớt vát niềm vui và nương tựa tuổi già, dì đã phải nhẫn nhục chịu bao cay đắng éo le về sự đàm tiếu của người đời”.
Nhưng thật bất hạnh cho dì Kha, do tuổi đã cao, đứa con sinh ra không được bình thường như những đứa trẻ khác. Chung-con dì, bị tật nguyền, cứ ngu ngơ… Mẹ tôi khẽ nhắc: “À, con bóc gói bánh cho Chung vài cái, nhưng phải khéo đấy, kẻo em nó không nhận đâu”. Cầm mấy chiếc bánh trên tay, lòng tôi trĩu nặng, miên man nghĩ về ký ức tuổi thơ của mình. Đó là năm 1968, khi ấy tôi mới 7 tuổi, còn nhớ đám cưới của chú Thanh và dì Kha đơn sơ mà vui lắm, do Đoàn thanh niên tổ chức theo “nếp sống mới”, ai cũng trầm trồ khen cô dâu, chú rể thật đẹp đôi. Niềm vui hạnh phúc chưa trọn vẹn, chỉ sau một tuần chú Thanh đã hòa nhập vào đoàn quân giải phóng lên đường vào miền Nam đánh giặc. Ai ngờ đó cũng là ngày dì Kha phải vĩnh biệt người chồng thân yêu.
Ngày 27-7 vừa rồi, tôi đến thăm dì và thắp nén hương cho chú Thanh. Nhà dì Kha cách nhà tôi không xa lắm, heo hút, chênh vênh bên cạnh thung lũng của quả đồi. Vẫn còn đó ngôi nhà ngói cũ kỹ do tổ tiên, ông bà để lại đã che chắn 2 mẹ con dì mấy chục năm qua. Mấy cây cau, bụi chuối trước sân nhà héo hon, xơ xác vì phải chịu những trận gió Lào thổi quăng quật cộng với cái nắng gay gắt giữa hè của vùng đất khô cằn, sỏi đá. Đang bước những bước chân chậm lại, ngắm nhìn những cảnh vật xung quanh, tôi bỗng giật mình, như từ trong vách đất vọng ra một giọng nói ồm ồm, không rõ lắm: “Ó ười ến” (có người đến). Và tôi cũng kịp trấn tĩnh lại khi phát hiện ra đó là thằng Chung. Nó đang đứng lấp ló phía sau vách đất, thỉnh thoảng ngước nhìn lên, rồi lại cúi xuống, khuôn mặt đờ đẫn, có vẻ thẹn thùng, e ngại khi thấy tôi đang bước lại gần. Cùng lúc, có tiếng chân người trong góc tối của căn nhà đi ra. Dì Kha đó ư? Mái tóc bạc trắng, gầy gò, ốm yếu, còn lại khuôn mặt và đôi mắt là dễ nhận ra, đúng rồi! Tôi gọi thành tiếng: “Dì Kha!”…
Chiến tranh đã lùi xa, thời gian đang dần xoa dịu những nỗi đau mất mát, nhưng với dì Kha (65 tuổi, ở xóm Hòa Liên, xã Thanh Hòa, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An) vẫn còn hiển hiện một nỗi đau âm thầm, vô vọng, không thể nào nguôi ngoai: Liệt sĩ Dương Văn Thanh, hy sinh năm 1972, tại mặt trận phía Nam, đến nay vẫn chưa biết phần mộ ở đâu. Đau xót hơn là đứa con tật nguyền, mai này không biết lấy ai nương tựa...
Bài và ảnh: NGUYỄN ĐẮC NAM