Hồi ấy, câu nói “Con gái Hà Nội, bộ đội Sơn Tây” cứ ám ảnh tôi suốt chặng đường hành quân từ đơn vị chiến đấu tận biên giới phía Bắc về Trường Sĩ quan Lục quân 1 đóng ở thị xã Sơn Tây (Hà Tây cũ) để học. Khi chưa đến xứ Đoài, chúng tôi cứ tưởng ở Sơn Tây chỉ có lính và lính mà thôi, con gái chắc là ít lắm!

Từ bé, tôi đã nghe những câu thơ về con gái xứ Đoài “Con gái Sơn Tây yếm thủng tày dần/Răng đen hạt nhót, chân đi cù lèo”, rồi “Tóc rễ tre, cô chải lược bồ cào/Sần sùi da cóc, hắc lào tứ tung/Trên đầu chấy rận như sung...”. Cứ thế này, muốn tìm một cô người yêu hẳn là phải xuống Hà Nội mới có; hoặc phải nhờ bố mẹ ở quê tìm và cưới cho một cô gái làng làm vợ mà thôi! Với những suy nghĩ mặc cảm và nỗi ám ảnh về con gái Sơn Tây như vậy, nên giai đoạn là học viên, tôi chỉ chăm chú vào việc học hành, rèn luyện để trở thành người sĩ quan tương lai.

Nhưng rồi, mọi suy nghĩ và tình cảm của tôi bị đảo lộn khi đơn vị đi học tập dã ngoại xa trường, đóng quân trong nhà dân. Lần đầu tiên tôi được gặp “Cô gái Sơn Tây”-đó là một cô gái ít hơn tôi vài tuổi, hồi ấy khoảng mười chín, đôi mươi. Cô tên là Dự, con gái chủ nhà, đã từng học xong trung cấp y đang chờ xin việc làm. Tôi rất ngỡ ngàng khi thấy cô gái trẻ và có duyên này, tuy ít tuổi nhưng hiểu biết xã hội khá sâu. Sau mỗi buổi đi huấn luyện về được trò chuyện với cô, chúng tôi biết cô yêu nghề y và rất mến áo lính. Ước mơ của cô nếu không xin được việc làm thì sẽ đăng ký đi nghĩa vụ quân sự để được phục vụ trong quân đội, được mang “màu xanh áo lính”.

Gần cô gái, có dịp ngắm em, tôi thấy tuy là con gái Sơn Tây nhưng em có làn da trắng, tóc dài, nói chuyện có duyên và lém lỉnh. Nàng đã gieo vào lòng tôi những rung cảm đầu đời. Mỗi khi đi học ngoài thao trường về đến nhà được gặp em tươi cười, rót cho bát nước chè xanh là tôi thấy nhẹ cả người, bao nhiêu mệt nhọc biến đi đâu hết. Ngày nghỉ, tôi theo em ra ruộng đào khoai giúp gia đình, tối về quây quần bên bếp lửa vừa ôn bài vừa bóc khoai nướng xì xụp ăn, rồi cười khúc khích, thật là một kỷ niệm vui, em để lại nhiều ấn tượng với tôi. Thế là suy nghĩ không đẹp về con gái Sơn Tây đã không còn trong tôi. Em, người con gái hiền thục theo tôi đi suốt những tháng, ngày trên giảng đường của Trường Sĩ quan Lục quân 1.

Thời tiết Sơn Tây thật là khắc nghiệt, nhưng con người Sơn Tây thì thật là hiền hòa và tốt bụng. Quân đội chắp cánh cho tôi bay lên, cơm gạo Sơn Tây nuôi dưỡng tôi, tình cảm của nhân dân Sơn Tây nâng bước tôi đi. Ra trường, tôi được tổ chức phân công ở lại trường công tác. Và người "con gái Sơn Tây" tôi gặp lần đầu ấy giờ đây đã là  “hậu phương vững chắc” của tôi. Cô gái Sơn Tây ấy sẽ mãi mãi gắn bó với tôi, cùng chung niềm vui và nỗi buồn qua năm tháng.

Nguyễn Văn Lai