CCB Nguyễn Văn Rượng: “Tôi vẫn giữ tờ giấy báo tử của mình làm kỷ niệm”.

QĐND Online - “Sau chiến tranh, được trở về với người thân và lập nghiệp ở quê hương đã là một may mắn”. Đó là tâm sự chung của những người đã một thời vào sinh ra tử, nhất là với những người tưởng như đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường…

Trong quá trình giải quyết những tồn đọng của chiến tranh, UBND tỉnh Thái Bình đưa ra chủ trương khảo sát đối với những trường hợp tham gia kháng chiến được công nhận là liệt sỹ và sau đó còn sống trở về. Theo thống kê ban đầu, toàn tỉnh hiện có trên 40 trường hợp, trong đó Kiến Xương là huyện chiếm tỷ lệ nhiều nhất với 22 quân nhân đã được công nhận là liệt sỹ nhưng sau đó còn sống trở về…

Nước mắt ngày trở về

Trong số 22 trường hợp nhận giấy báo tử ở Kiến Xương, mỗi người một hoàn cảnh khác nhau nhưng việc báo tử nhầm đối với họ hầu hết là do những nguyên nhân khách quan bởi hoàn cảnh chiến tranh. “Liệt sỹ” Đỗ Đình Goòng (thôn 4, xã Vũ Quý) là một trong những người như vậy. Giờ đây, trong ký ức của ông vẫn còn vẹn nguyên hình ảnh những năm tháng chiến tranh ở Mặt trận Đông Nam Bộ với những trận đánh ác liệt của giai đoạn 1966-1972. Trong một trận chiến đấu, ông đã bị thương và bị địch bắt làm tù binh, sau đó chúng giam ông ở nhiều nhà tù cho tới ngày trao trả theo tinh thần Hiệp định Paris. “Đó là quãng thời gian tôi bị mất liên lạc với đơn vị, tới khi về Đoàn an dưỡng của tỉnh đội Thanh Hoá mới tìm cách liên lạc về nhà”, ông Goòng nhớ lại.

Ông nhớ như in những năm bị địch bắt, tù đày, bị tra tấn, hành hạ dã man. Đến giờ, trên người ông vẫn “đậm” những vết thương từ những trận đòn của giặc. Năm 1976, trở về với gia đình, ông mới biết mình đã “hy sinh” tới… 4 năm. Ngoài việc kể lại những kỷ niệm trong cuộc chiến tranh đã diễn ra cách đây hơn 3 thập kỷ, hôm nay người cựu chiến binh đã bước qua tuổi 60 ấy tươi cười đem ra “khoe” với chúng tôi tấm bằng “Tổ quốc ghi công” ghi tên mình. Tấm bằng được ông cẩn thận ép plastic. Ông bảo: “Hồi về nhà, tôi đã báo cáo với các cấp chính quyền để Nhà nước cắt tất cả các chế độ liên quan, chỉ giữ lại mỗi tấm bằng này để… làm kỷ niệm”.

Theo lời tâm sự của ông, được trở về, dù với thân thể không còn nguyên vẹn, nhưng với ông, thế đã là may mắn hơn nhiều những anh em đồng đội khác. “Ngày tôi còn sống trở về, bố mẹ và các chú, bác trong họ mừng lắm, vì tôi là con trai duy nhất trong gia đình, cả nhà đã lên kế hoạch, nào là sẽ liên hoan thật to, nào là đốt pháo ăn mừng. Nhưng tôi xin phép gia đình không tổ chức vì đất nước mình vừa mới hết chiến tranh, nỗi đau trong từng gia đình vẫn chưa nguôi ngoai, bây giờ người này vui một thì người khác sẽ buồn gấp mười…”.

Cũng như ông Goòng, CCB Nguyễn Văn Rượng (xã Vũ Công, huyện Kiến Xương) khi bị giam trong nhà tù của Mỹ nguỵ tháng 9-1973 thì gia đình nhận được giấy báo tử của đơn vị: “Đồng chí Nguyễn Văn Rượng đã hy sinh ngày 3-6-1969 tại Mặt trận phía Nam. Đơn vị đã mai táng tại khu vực riêng gần Mặt trận”. Nhưng đến tháng 7-1974, còn ngót 2 tháng nữa là đến giỗ đầu ông, thì người nhà lại thấy ông bằng xương, bằng thịt, khoác ba lô về với thương tật 3/4. Giờ đây, tuổi cũng đã cao, sức khoẻ ông cũng giảm nhiều do ảnh hưởng từ những năm bị tù đày trong trại giam của địch.

“Sau chiến tranh, được trở về với người thân và lập nghiệp ở quê hương đã là một may mắn”. Đó là tâm sự chung của những người đã một thời vào sinh ra tử, nhất là với những người tưởng như đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường…

Trở về sau chiến tranh, gặp lại cha mẹ, anh em, bạn bè, họ thấu hiểu hết những nỗi đau mà người thân từng phải gánh chịu. Họ kể rằng, trong ngày gặp mặt, ai nấy đều mừng vui, rạng rỡ, nhưng mắt ai cũng đỏ hoe. Với những người thân trong gia đình, đấy quả là một niềm vui lớn, một niềm vui bất ngờ. Nhưng ai có thể đong đếm được nỗi đau mà họ khi biết tin người thân hy sinh ngoài mặt trận? Lần trở về này, cái vết thương tưởng chừng đã “lành sẹo” kia lại tiếp tục tấy lên, nhưng chắc chắn một điều, nó sẽ không bao giờ còn làm họ đớn đau thêm nữa.

CCB Đỗ Đình Goòng kể chuyện những ngày là “liệt sỹ” với cán bộ chính sách tỉnh

Trong câu chuyện với chúng tôi, cụ Đặng Xuân Huy, thân sinh của CCB Đặng Xuân Nguyệt (thôn 4, xã Vũ Thắng, Kiến Xương) nhớ lại: “Hồi năm 1973, cả nhà tôi vừa cúng trăm ngày cho thằng Nguyệt được vài hôm thì nhận được thư của nó gửi về từ trại an dưỡng. Chẳng ai tin nổi vào mắt mình. Thằng cả nhà tôi đem hết những giấy tờ liên quan đến “liệt sỹ” Nguyệt ra đốt, cả những tấm ảnh trong lễ truy điệu ở ủy ban xã cũng không còn…”.

Nhen lên niềm hy vọng…

Khó có thể kể hết được những hoàn cảnh, số phận của từng người trong số hàng chục những người con quê lúa Thái Bình một thời đã từng là “liệt sỹ”. Giờ đây, cũng giống như biết bao cựu chiến binh khác, họ đã và đang tiếp tục sinh sống, làm ăn ở trong và ngoài tỉnh. Có những người đang tiếp tục gắn bó với mảnh ruộng, khu vườn. Cũng có người làm thêm, kiếm sống ở đất khách, quê người. Tất cả đều được cấp ủy, chính quyền địa phương tạo mọi điều kiện giúp đỡ giải quyết chế độ và khôi phục quyền lợi.

Trường hợp trở về năm 2001 của “liệt sỹ” Nguyễn Văn Thuấn ở xã Quỳnh Giao, huyện Quỳnh Phụ, là một ví dụ. Do chiến tranh và trí nhớ kém, anh không còn giấy tờ gì liên quan, song chính quyền địa phương vẫn tạo điều kiện để anh sinh sống, lập gia đình và làm ăn bình thường như mọi công dân khác…

Trong số các quân nhân đã bị báo tử, có trường hợp người thân của họ được biết “còn sống” trong những hoàn cảnh khá đặc biệt như quân nhân Trần Văn Cổn (xã Trà Giang, huyện Kiến Xương), được đơn vị báo tử năm 1963, nhưng vì nhiều lý do, mãi gần 20 năm sau, từ Định Hoá, Thái Nguyên, trước khi chết, ông Cổn mới trăng trối cho vợ con biết. Thế là, mãi tới năm 1981, họ hàng và chính quyền địa phương mới biết từng ấy năm liệt sỹ Cổn chưa “hy sinh”…

*     *

*

Mong sao, danh sách những “liệt sỹ” còn sống, trở về với quê hương như ở Thái Bình sẽ ngày càng dài thêm, để các anh và người thân của mình được cầm trên tay tấm giấy báo tử, tấm bằng “Tổ quốc ghi công”… như những vật kỷ niệm bị ghi nhầm họ tên, ngày tháng…

Bài, ảnh: Bùi Minh Tuệ