Tác giả (đội mũ, bên trái) tại nơi khám bệnh cho dân, trong chương trình quân dân y kết hợp. Ảnh: ĐÀO VĂN SỬ

Được tin báo Quân đội nhân dân tổ chức cuộc đua xe đạp “Về Trường Sơn 2007”, lòng tôi lại náo nức muốn được hành quân về thăm lại những vùng đất nghĩa tình đầy kỷ niệm thời trai trẻ năm xưa. Một trong những vùng đất còn in dấu sâu đậm nhất trong tôi là làng Lệ Kỳ, xã Vĩnh Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, nước bạn Lào (4-1972), đơn vị chúng tôi được lệnh vào chiến đấu ở mặt trận B5. Vừa hành quân, đơn vị vừa luyện tập, vừa củng cố, bổ sung quân số. Khoảng giữa tháng 8, chúng tôi hành quân dọc theo đường 7, qua Đô Lương, Nam Đàn (Nghệ An) rồi vào đất Hà Tĩnh, đến Quảng Bình. Ngày ấy, hậu quả chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ vẫn còn hằn sâu trên từng cánh đồng, chòm xóm thân yêu của các tỉnh miền Trung. Đi giữa vùng đất đạn bom vốn đã nắng nóng lại càng thêm oi bức. Còn những người dân nơi đây thì lộ rõ vẻ lam lũ, khắc khổ, nhưng nồng ấm tình người.

Qua phà sông Gianh, chúng tôi đến Cự Nẫm. Tại đây chúng tôi bổ sung trang bị, lương thực, vũ khí… rồi hành quân đi sâu vào phía Nam theo đường 15. Ngày nghỉ đêm đi, dọc đường không ngớt những loạt bom B52, rung chuyển cả không gian…

Chúng tôi được lệnh đóng quân tại làng Lệ Kỳ, cách phà Long Đại khoảng 10km. Cánh lính chúng tôi còn non trẻ, vừa rời ghế nhà trường chưa hề xa nhà nên không hiểu các địa danh đã qua, nhưng sông Gianh, Cự Nẫm, phà Quán Hàu, Long Đại, ga Lệ Kỳ thì tôi nhớ rất rõ, vì tôi là lính trinh sát của tiểu đoàn 16, Sư đoàn 312.

Tại đây chúng tôi xây dựng trận địa 12,7mm, đưa 4 đại đội vào trực chiến, bảo vệ phà Long Đại. Thời gian này, chiến trường miền Nam ta đánh mạnh, nên giặc Mỹ tăng cường dùng B52 và máy bay cường kích F4H trinh sát để ném bom, bắn phá ác liệt, nhằm ngăn cản sự chi viện của miền Bắc đối với chiến trường miền Nam. Phà Long Đại là một trong những mục tiêu trọng điểm ngày đêm giặc Mỹ bắn phá.

Lệ Kỳ là một làng quê nghèo, có đường sắt chạy qua và còn đó ga Lệ Kỳ. Nhân dân ở đây thực hiện nghiêm túc mọi sinh hoạt thời chiến, mọi công việc đều làm vào ban đêm. Trong làng, bà con ta đào hầm tránh bom đạn khắp trong nhà, ngoài vườn, ngoài sân, ngoài đường… Mọi sinh hoạt chủ yếu ở dưới hầm. Thanh niên trai tráng hầu hết đã ra mặt trận. Còn lại bám làng là các cụ già, phụ nữ và em nhỏ… Cảnh sống thời chiến ở đây vẫn diễn ra bình thường như bao làng quê miền Bắc trong chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, nhưng căng thẳng, ác liệt hơn nhiều.

Lệ Kỳ ở vùng bán sơn địa, nhà cửa còn đơn sơ, chủ yếu là nhà tranh, vách đất, bà con sống tằn tiện, một nắng hai sương. Có gia đình dỡ nhà để làm hầm “âm” dưới đất tránh bom pháo… Nhưng tình cảm của bà con nơi đây dành cho bộ đội thì cực kỳ sâu nặng. Nhiều gia đình nhường nhà cửa cho bộ đội ở, ngay cả những căn hầm sinh hoạt của gia đình cũng để cho bộ đội ngủ nghỉ, tránh bom đạn của Mỹ. Khi đơn vị chúng tôi làm trận địa trực chiến bắn máy bay Mỹ, dân quân ra giúp đỡ đào hào, làm công sự (chủ yếu là nữ), công việc quá nặng nhọc, nhưng tiếng nói, tiếng cười rộn vang trên trận địa, khiến cho đám lính trẻ thêm hăng say với nhiệm vụ. Sau mỗi trận đánh đối mặt với máy bay Mỹ, dân quân ra thăm hỏi động viên, tặng quà bộ đội. Chỉ là ấm nước, củ khoai cùng tiếng hát mà ấm áp tình nghĩa quân dân, xao động tâm hồn lính trẻ chúng tôi.

Tôi còn nhớ một lần vào chiều 2-9-1972, sau khi ở trận địa về, thấy có mâm cỗ đặt sẵn. Chưa hiểu chuyện gì, cô con gái chủ nhà nói: “Hôm nay ăn Tết Độc lập, gia đình mời cơm mấy eng”. Cuộc sống chiến đấu ác liệt khiến chúng tôi cũng quên cả thời gian, không nhớ đã đến ngày Quốc khánh. Thực tình, từ khi vào bộ đội, chúng tôi chưa bao giờ được thưởng thức mâm cỗ to và ngon đến thế. Chúng tôi cảm động vô cùng, càng hiểu rõ hơn, trong gian khổ, ác liệt của chiến tranh, thì tình cảm của nhân dân Lệ Kỳ cũng như bao làng quê khác thật sâu nặng. Và chính vì vậy khi ra trận, chúng tôi đã đem theo hình ảnh làng quê thân thương ấy vào trận đánh để chiến đấu dũng cảm, dám hy sinh thân mình, quyết trả thù cho đồng bào, đồng chí, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, cho nhân dân.

Tiểu đội trinh sát chúng tôi được giao nhiệm vụ trực kẻng tại kho hợp tác xã để báo động khi có máy bay B52 vào. Sân kho rộng, kẻng là vỏ quả bom Mỹ. Mỗi lần phát hiện có B52, chúng tôi lại thúc một hồi kẻng báo động để bộ đội và nhân dân xuống hầm. Nơi đây gần giới tuyến nên B52 bay thấp hơn, khi đánh phá từ vĩ tuyến 20 trở ra. Những lúc trời quang, chúng tôi nhìn rất rõ từng tốp 3 chiếc máy bay giặc từ biển bay vào… Ngay sau đó là những loạt bom rền trời, không gian chao đảo… Thường một ngày báo động 3-5 lần và sự tàn phá, hủy diệt của B52 thật khủng khiếp. Nhân dân Quảng Bình thì quá quen với cuộc sống bom đạn, nên sau những loạt bom, khói trùm lên mịt mù, khét lẹt, công việc lại bình thường.

Tiểu đoàn chúng tôi ở đây khoảng một tháng, cả 4 đại đội đều tham gia trực chiến. Trận địa cách phía nam làng Lệ Kỳ 2km, để trực chiến bảo vệ phà Long Đại. Đơn vị đã bắn rơi 2 máy bay F4. Những ngày tôi ở đây đã chứng kiến 3 lần làng Lệ Kỳ bị bom B52 Mỹ đánh trúng, một số đồng đội của tiểu đoàn tôi đã hy sinh, còn những tổn thất về người và tài sản của nhân dân thì không sao kể xiết.

Tôi ở trong gia đình của bác Học. Bác khoảng 60 tuổi, đã nghỉ hưu. Nhà tranh đơn sơ, trong nhà không có gì ngoài những hàng cột, thuận tiện cho bộ đội mắc võng. Giữa nhà, một căn hầm tránh bom đạn, không có nắp. Mọi sinh hoạt ăn ở của gia đình bác (gồm vợ chồng bác, cô con gái tên Hòa đang học lớp 10 và cậu con trai 8 tuổi) đều ở hầm lớn, ngoài góc sân, có mái tre tránh mưa. Ở góc sân cạnh vườn rau còn có hầm chữ A nhỏ. Những lúc rỗi, tôi thường giúp em Hòa làm bài tập toán, hóa, nhất là bình các bài văn thơ của lớp 10. Vốn là học sinh có năng khiếu về văn nên kiến thức văn học phổ thông tôi còn nhớ rất rõ…

Rồi chúng tôi được lệnh di chuyển vào vùng rừng Đông Sơn, cách đó khoảng 8-10km. Tại đây chúng tôi tiếp tục huấn luyện… Cánh lính trẻ đứa nào cũng háo hức muốn ra mặt trận.

Vào lúc 15 giờ ngày 18-9-1972 - ngày mà suốt đời tôi không quên được - chúng tôi đang ở trận địa trực chiến thì B52 rải bom vào làng Lệ Kỳ… Tiếng nổ như phá nát không gian, cả khu vực tối sầm bởi khói bom cuồn cuộn. Tiếng khóc, tiếng kêu la và những tiếng gọi tìm kiếm cứu người bị thương, thật là khủng khiếp…

Những người lính chúng tôi lặng người xúc động, trào dâng nỗi căm thù giặc. Sau trận bom, căn hầm bác Học vẫn trú hằng ngày chỉ còn lại hố bom sâu hoắm. Căn nhà tôi thường mắc võng chỉ còn trơ lại một vài cây cột cháy đen, lửa khói âm ỉ. Bà mẹ và cô gái đang gào thét bất lực. Thế là bác Học và cháu trai đã vĩnh viễn không còn. Nỗi đau thương đến đột ngột, lòng tôi bàng hoàng…

Ít ngày sau, vào buổi chiều tối, đơn vị chúng tôi được lệnh hành quân vượt sông Bến Hải, phía tây bắc Thành cổ Quảng Trị. Đang mùa mưa, nước sông lên to, mặt sông rộng hơn, nước chảy rất xiết, đỏ ngầu, dọc theo hai bên bờ còn rõ dấu vết bom cày xới, đất phơi màu đỏ sậm. Sát mép nước là những bụi lau thưa nghiêng ngả theo dòng chảy. Để vượt sông an toàn, tiểu đoàn phải phân tán lên hướng thượng nguồn để tránh máy bay rồi chớp thời cơ vượt sông. Vì nơi này là trọng điểm thường xuyên bị máy bay và pháo giàn của giặc từ ngoài biển bắn vào. Tôi bơi cạnh đồng chí Đài, tiểu đoàn trưởng. Tất cả trang bị quần áo, bản đồ, ba lô… cho vào túi nilon xanh bọc gạo của Trung Quốc, thắt túm lại làm phao bơi. Riêng vũ khí thì để trên túi phao. Tôi thuộc diện bơi giỏi, lặn giỏi, vì quê tôi vùng sông nước, những chiều hè, tôi thường cùng đám bạn trang lứa bơi lặn và đánh “trận giả” trên bến sông quê.

Bầu trời u ám, nhiều mây, máy bay trinh sát L18 và OV10 của giặc bay sát sạt, dai dẳng. Mỗi khi chúng phát hiện mục tiêu, liền bắn pháo khói, chỉ điểm cho lũ F4 bổ nhào ném bom. Khi đội hình tiểu đoàn tôi đã phần lớn sang đến bờ sông phía nam, thì chúng phát hiện. Đạn 20mm nổ như cày nát mặt sông, bom nổ, những cột nước dựng đứng như muốn nhấn chìm tất cả… Trời tối dần, không gian yên tĩnh lạ thường… Xa xa chúng tôi thấy những chùm pháo sáng vàng vọt, yếu ớt trên bầu trời phía Thành cổ…

Chúng tôi được lệnh củng cố đội hình, giải quyết hậu quả. Tiểu đoàn bị tổn thất nặng, một số đồng chí hy sinh, vĩnh viễn nằm lại trên bến sông này. Đơn vị tiếp tục hành quân đi sâu vào đất Quảng Trị. Phía tây, dãy Trường Sơn hùng vĩ mờ ảo một màu đen sẫm. Phía trước là những quầng sáng. Địa bàn chiến đấu của tiểu đoàn chúng tôi là vùng giáp ranh giữa đồng bằng và rừng núi. Những địa danh như sông Ba Lòng, Tích Tường, Như Lệ, La Vang, Ái Tử, động Toàn, động Ông Do, cao điểm 52, Khe Trai, Đường 9… là chiến trường quen thuộc của tiểu đoàn 16, Sư đoàn 312 và nhiều đơn vị bạn khác… Nơi đây đã thấm đẫm xương máu, biết bao đồng đội của tôi, mãi mãi ở tuổi 20, nằm lại trên đất đai Quảng Trị.

Mùa mưa ở Quảng Trị thật là khó chịu, mưa cả ngày cả đêm, cả tuần… Mây đen giăng kín bầu trời. Có đợt cả tháng không thấy ánh mặt trời, nên giặc Mỹ sử dụng B52 ném bom tọa độ là chính. Không nghe tiếng máy bay, mà chỉ có bom nổ rền vang, trời đất chao đảo, nghiêng ngả, mặt đất bị xới tung lên bởi sự công phá, hủy diệt của bom B52.

Người ta nói, không có mét vuông đất nào ở Quảng Trị mà không có mảnh bom đạn Mỹ, thật không sai. Rồi bỗng nhiên, những ngày cuối tháng 12-1972, khu vực mặt trận không có bom B52, ngay cả lũ F4 cũng biến mất. Thì ra, Mỹ tập trung B52 để đánh phá Hà Nội (thời gian này tại đơn vị thông tin hạn chế, đài báo không có). Cùng với Quảng Trị và cả nước, Hà Nội đã viết nên bản hùng ca vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, làm trận “Điện Biên Phủ trên không” góp phần quyết định, buộc chính phủ Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn ký Hiệp định Pa-ri, lập lại hòa bình.

Chính những ngày chiến đấu ác liệt này, ngày 26-3-1973, tôi vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Từ đó đến nay đã 35 năm không có dịp trở lại Lệ Kỳ, nơi mà hàng vạn quân đến, quân đi thời kỳ ác liệt nhất của chiến tranh. Nơi đã chịu bao nhiêu đau thương mất mát, ác liệt của bom đạn kẻ thù. Chắc rằng, thời gian qua đi, những vết tích của chiến tranh nay không còn nữa. Những người dân Lệ Kỳ như em Hòa, em Chiến (nhân viên bán hàng hợp tác xã Lệ Kỳ ngày ấy) nay đã lên bà, còn tôi và những đồng đội thuộc tiểu đoàn 16, Sư đoàn 312 năm xưa đã một thời sống và chiến đấu, thì những ký ức về Lệ Kỳ, năm tháng chiến tranh, không bao giờ quên được.

Nhân cuộc đua xe đạp “Về Trường Sơn 2007” cúp báo Quân đội nhân dân đi dọc miền Trung, tôi viết những dòng này, nếu người dân Lệ Kỳ và các đồng đội của tôi, từng ở tiểu đoàn 16, Sư đoàn 312 nay còn tại ngũ hay đã trở về với đời thường biết được, thì chúng ta hãy tự hào vì những năm tháng đã sống và chiến đấu bên nhau ở chính mảnh đất Lệ Kỳ và Quảng Trị năm xưa. Có ai trong sư đoàn được may mắn hành quân cùng đoàn xe đạp “Về Trường Sơn 2007” do báo Quân đội nhân dân tổ chức không? Nếu có, tôi tin rằng đồng đội ấy của tôi sẽ ghé thăm làng Lệ Kỳ gan góc, đau thương mà đầy tình nghĩa quân dân gắn bó.

Tôi chưa một lần trở lại Quảng Trị chiến trường xưa, viếng thăm nghĩa trang Trường Sơn để thắp nén nhang chung trên Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, những đồng đội của chúng ta nói chung và tiểu đoàn 16, Sư đoàn 312 nói riêng đã anh dũng chiến đấu hy sinh oanh liệt trên chiến trường Quảng Trị năm xưa.

Bà con làng Lệ Kỳ ơi, quê tôi ở Nam Định. Suốt thời gian quân ngũ, nhiều lần vào Nam ra Bắc, cứ mỗi lần tàu qua Lệ Kỳ, dù ban ngày hay ban đêm, tôi đều thức và háo hức nhìn qua cửa sổ. Mỗi lần ấy, những kỷ niệm, những ký ức về Lệ Kỳ thời chiến tranh ùa về trong tôi, trào dâng nỗi nhớ thương, cảm phục sâu sắc. Giá tôi được một lần trở lại để biết rõ hơn về người và đất Lệ Kỳ và vùng đất Thành cổ Quảng Trị anh hùng năm xưa.

Đại tá ĐỖ NGỌC BÔN (Chủ nhiệm quân y Binh đoàn Cửu Long)