Có thể thấy, chưa bao giờ trên đất nước ta lại có nhiều kẻ thù xâm lược hiếu chiến đến như vậy, tổng số quân đội nước ngoài trên đất nước Việt Nam lên tới khoảng 300.000 tên. Chúng cấu kết, bao vây, chống phá hòng thủ tiêu thành quả cách mạng mà Đảng và nhân dân ta vừa giành được; xóa bỏ nền độc lập non trẻ, lật đổ chính quyền cách mạng, thành lập chính quyền tay sai, biến nước ta thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Thời điểm này, vận mệnh đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhưng Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước phân tích, đánh giá, phân hóa, lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù để giữ chính quyền cách mạng.
 |
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đại biểu Anh, Mỹ, Trung Quốc tại Lễ ký kết Hiệp định Sơ bộ, ngày 6-3-1946. Ảnh tư liệu |
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc". Chỉ thị là tuyên bố quan trọng của Đảng trong việc giải quyết tình hình đất nước và đề ra những nhiệm vụ mới, với khẩu hiệu “Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết". Theo đó, chỉ thị phân tích những thay đổi căn bản về tình hình quốc tế và trong nước sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Trên cơ sở phân tích tình hình thực tiễn, Trung ương Đảng đã đề ra những biện pháp cụ thể nhằm chống lại kẻ thù xâm lược; trong đó, về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”. Phương châm là “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết”, “muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”. Đối với quân Tưởng thì chủ trương Hoa-Việt thân thiện; đối với quân Pháp thì độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế. Chỉ thị xác định kẻ thù chính của Việt Nam nói riêng, Đông Dương nói chung lúc này là thực dân Pháp xâm lược nên phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng; hết sức kêu gọi đoàn kết chống chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược; đồng thời chống mọi mưu mô phá hoại, chia rẽ của bọn Trotsky, Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng...
Ngày 5-3-1946, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng, nhất trí tán thành chủ trương "hòa để tiến", quyết định tạm thời hòa hoãn với thực dân Pháp để có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng, đồng thời loại bớt một kẻ thù nguy hiểm là chính quyền Tưởng Giới Thạch. Ngày 6-3-1946, Chính phủ ta đã ký Hiệp định Sơ bộ với Pháp, đồng ý cho 15.000 quân Pháp thay thế quân Tưởng giải giáp quân Nhật. 3 ngày sau, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hòa để tiến. Chỉ thị khẳng định đây là thắng lợi bước đầu, là giải pháp mang tính tình thế của Đảng, cần tận dụng thời gian hòa hoãn để tiếp tục xây dựng thực lực, mau tiến tới giành độc lập hoàn toàn.
Chỉ thị giải thích lý do ký hiệp định, hòa với Pháp để tránh tình thế bất lợi: Phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng phản động (thực dân Pháp, Tàu trắng, bọn phản cách mạng trong nước), chúng sẽ đúc thành một khối và được đế quốc Anh, Mỹ giúp sức để đánh ta. Chủ trương hòa với Pháp còn nhằm mục đích lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp và Tưởng để đẩy mau quân Tưởng rút về nước, tranh thủ thời gian, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới, chuẩn bị cuộc chiến đấu giành độc lập hoàn toàn.
Nhận rõ mâu thuẫn giữa hai tập đoàn đế quốc là Anh-Pháp và Mỹ-Tưởng, trong vòng hơn một năm, chính quyền cách mạng non trẻ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện các sách lược khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, như lúc hòa với Tưởng để tập trung chống Pháp ở miền Nam (từ tháng 8-1945 đến tháng 3-1946), lúc thì hòa với Pháp để đuổi Tưởng... Tháng 6-1946, quân Tưởng rút khỏi Việt Nam, bọn phản động mất chỗ dựa nên ra sức chống phá, nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Pháp, chúng mưu toan đảo chính lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Tháng 7-1946, ta đã triệt phá thành công âm mưu đảo chính của các đảng phái phản động với sự hậu thuẫn từ các thế lực thù địch, đế quốc bên ngoài nhằm lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ. Hàng trăm đối tượng bị bắt, hàng chục súng ngắn, lựu đạn và nhiều truyền đơn kêu gọi lật đổ chính quyền, cùng tài liệu mật liên kết với quân Tưởng và thực dân Pháp bị tịch thu. Vụ phá án đã đập tan cuộc đảo chính phản cách mạng, phá vỡ liên minh phản cách mạng giữa bọn phản động bên trong với thế lực xâm lược bên ngoài.
Sự nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp cách mạng Việt Nam thoát khỏi tình thế bị kẹp cả hai phía: Pháp và Quốc dân Đảng. Việc đẩy quân đội Tưởng Giới Thạch ra khỏi Việt Nam đã làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng. Chúng ta không chỉ triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa hai tập đoàn đế quốc là Anh-Pháp và Mỹ-Tưởng mà còn làm sâu sắc thêm mâu thuẫn trong nội bộ quân Tưởng và quân Pháp để giảm sức mạnh của chúng. Nhờ đó, ta đã tránh được thế phải đối phó với nhiều kẻ thù nguy hiểm trong cùng một lúc, đưa dân tộc vượt qua tình thế "ngàn cân treo sợi tóc".
TÂM TẤN HÙNG
* Mời bạn đọc vào chuyên mục 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 xem các tin, bài liên quan.