Ở đó, những câu chuyện được kể không bằng tiếng súng, không bằng chiến hào, mà bằng những dòng thơ, mảnh giấy úa màu, bằng máu, nước mắt và cả ánh sáng rực hồng của niềm tin cách mạng. Những chiến sĩ yêu nước, trong ngục tối tưởng như tận cùng khổ đau ấy, lại tỏa sáng như những "viên ngọc đỏ" lấp lánh bởi dũng khí, ý chí và tình yêu Tổ quốc sắt son.

Ai có thể quên được nhà văn hóa, nhà báo Nguyễn An Ninh (1900-1943). Trong bóng tối Khám Lớn Sài Gòn hay giữa mênh mông sương gió Côn Đảo, đồng chí vẫn viết, vẫn thắp sáng niềm tin: Sống mà vô dụng, sống làm chi/ Sống chẳng lương tâm, sống ích gì?/ Sống trái đạo người, người thêm tủi/ Sống quên ơn nước, nước càng khi... Câu chữ như lời tự vấn, cũng là lời thức tỉnh bao thế hệ, nhắc ta sống sao cho xứng đáng với đất nước này.

Trưng bày "Bút sắc, lòng son" thu hút đông đảo người dân đến tham quan. 

Rồi câu chuyện của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh (1908-1932), người thanh niên ưu tú, người cán bộ cộng sản đầu tiên của phong trào công nhân Việt Nam, trong xà lim Hỏa Lò, trước giờ vĩnh biệt vẫn nén đau thương viết bài thơ "Tạ từ" gửi mẹ. Từng câu, từng chữ như rớm máu, mà kiêu hãnh, mà thấu tận trời cao: Hồn còn mang nặng lời thề/ Nát thân chưa dễ đền nghì trời mây!/ Tạ từ vĩnh quyết từ nay/ Cúi xin từ mẫu chóng khuây nỗi buồn! Và đồng chí Hoàng Văn Thụ (1909-1944) với bài thơ “Nhắn bạn” gửi lại trước khi bị thực dân Pháp hành quyết tại Hỏa Lò: Thân dẫu lao tù lâm cảnh hiểm/ Chí còn theo dõi buổi tung hoành/ Bạn hỡi gần xa hăng chiến đấu/ Trước sau xin giữ tấm lòng thành. Lời thơ đồng chí viết ra giữa chốn ngục tù là lời nhắn gửi cả một đời tin yêu, cả một trái tim không khuất phục.

Người xem còn xúc động với câu chuyện của nhà hoạt động cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai (1910-1941) và em gái Nguyễn Thị Quang Thái (1915-1944, vợ đầu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp). Họ là hiện thân cho những người phụ nữ Việt Nam dịu dàng nhưng gan góc. Năm 1940, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai bị thực dân Pháp bắt, năm 1941 kết án tử hình; từng bị giam tại bót Catinat, Trại giam Phú Mỹ, Khám Lớn Sài Gòn. Trong thời gian bị giam, những vần thơ đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai viết ra không chỉ bằng mực, mà bằng cả máu, không chỉ viết bằng ngôn từ, mà bằng cả lòng trung trinh với lý tưởng. Dù trong xiềng xích tử tù, đồng chí vẫn khảng khái: Dù đánh, dù treo, càng cương quyết/ Dù kềm, dù kẹp, chẳng sai lời.

Từng cuộc đời, từng câu thơ, từng lá thư trong Trưng bày “Bút sắc, lòng son” là một “viên ngọc đỏ” tinh khiết, rực rỡ, bất khuất giữa đêm đen lao tù của thực dân, đế quốc. Những người cộng sản bị bắt, bị tra tấn, bị đày ải, nhưng chưa từng đầu hàng. Trái lại, họ biến bút thành gươm, biến chữ nghĩa thành đạn pháo, viết nên bản hùng ca bất diệt của dân tộc.

Chúng ta, thế hệ hôm nay, khi bước đi trên phố phường thanh bình, khi lặng nghe Quốc ca giữa trời thu Hà Nội, sao có thể không xúc động, không cúi đầu trước những con người như thế? Từ ngục tối, thế hệ cha anh truyền lửa cho chúng ta. Từ cái chết, những con người kiên trung với Đảng dạy ta cách sống. Từ máu và nước mắt của những người con ưu tú ấy, đất nước mới có được dáng hình kiêu hãnh hôm nay.

Một hoạt cảnh tái hiện cuộc sống của các chiến sĩ cách mạng trong chốn lao tù thực dân Pháp. 

Tri ân không chỉ là tưởng nhớ mà còn là trách nhiệm. Trách nhiệm sống xứng đáng với những gì cha ông đã hy sinh, cống hiến. Trách nhiệm học tập, sáng tạo, gìn giữ những giá trị cao đẹp, như chính những “viên ngọc đỏ” đã gìn giữ cho ta trong ngục tối thuở nào. Chúng ta lớn lên từ máu thịt của những người đi trước. Và trong mỗi bước chân hôm nay tiến về phía tương lai, ánh lửa từ “bút sắc, lòng son” ấy vẫn luôn soi đường cho chúng ta vững tin tiến bước dưới lá cờ Đảng vinh quang.

Bài và ảnh: MINH THÀNH

* Mời bạn đọc vào chuyên mục 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 xem các tin, bài liên quan.