Thiếu tướng, PGS, TS Hoàng Văn Phai, Phó giám đốc Học viện Chính trị:
Niềm tin xã hội: Nền móng của ổn định và bứt phá
Niềm tin xã hội, hiểu khái quát là lòng tin và sự kỳ vọng của cộng đồng vào các cá nhân, tổ chức, thiết chế xã hội, luôn là cội nguồn sức mạnh, “chìa khóa” bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
 |
Thiếu tướng, PGS, TS Hoàng Văn Phai. Ảnh: ĐĂNG BÃO |
Lịch sử dân tộc chứng minh, khi lòng dân đồng thuận, đặt trọn niềm tin vào con đường chính nghĩa, dân tộc ta đã vượt qua mọi gian khổ, đánh bại những kẻ thù xâm lược mạnh hơn gấp bội để giành lại độc lập, tự do. Ngược lại, triều đại nào không có được lòng dân thì dù quân đội hùng mạnh, thành lũy kiên cố đến đâu cũng khó tránh khỏi sụp đổ, như lời Hồ Nguyên Trừng từng cảnh báo: “Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, toàn dân tộc đã làm nên Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, đánh đuổi thực dân, đế quốc nhờ niềm tin mãnh liệt vào con đường cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Đó cũng là động lực để chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đưa đất nước đạt được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế to lớn như ngày nay.
Bước vào giai đoạn mới với khát vọng trở thành quốc gia phát triển, niềm tin xã hội càng có vai trò sống còn. Sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh: “Ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại... để mất niềm tin là mất tất cả”. Niềm tin chính là thước đo sự đồng thuận của lòng dân, là “lá chắn” giúp mỗi cá nhân, cộng đồng vững vàng trước mọi âm mưu chống phá; là “chất keo” gắn kết xã hội, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển. Khi người dân tin tưởng vào Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, họ sẽ sẵn sàng chung sức, đồng lòng thực hiện các chủ trương, chính sách; niềm tin của doanh nghiệp vào môi trường, thể chế sẽ khuyến khích đầu tư dài hạn, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.
Thực tiễn cho thấy, giữ vững niềm tin xã hội đòi hỏi đồng bộ nhiều giải pháp: Kiên định, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ; hoàn thiện thể chế, chính sách gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục lý tưởng cách mạng, phát huy dân chủ, tôn trọng, lắng nghe dân; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ tâm, tầm, phẩm chất, năng lực; kiên quyết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; đồng thời chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Giữ vững và lan tỏa niềm tin xã hội không chỉ là yêu cầu trước mắt mà còn là nhiệm vụ chiến lược, quyết định sự trường tồn của chế độ và tương lai dân tộc. Khi niềm tin được đặt đúng chỗ, khơi dậy và phát huy đúng vai trò, nó sẽ tạo sự đồng thuận sâu rộng, khơi thông mọi nguồn lực, trở thành nền tảng vững chắc để đất nước phát triển bền vững, tự cường và hùng cường.
HỒNG SÁNG (ghi)
--------
GS, TS Lê Hồng Hạnh, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam:
Trọng tài thương mại - Giải pháp bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
Tranh chấp thương mại đang là vấn đề nổi lên của nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt với những quốc gia có hội nhập sâu với các nền kinh tế trên thế giới như Việt Nam. Hiện nay, có hàng trăm nghìn tỷ đồng giá trị tài sản đang bị tắc nghẽn bởi các tranh chấp pháp lý mà chưa thể giải quyết được bằng hành chính hoặc tòa án. Vì sao lại như vậy? Đó là do cách chúng ta tiếp cận với tranh chấp không phù hợp, tất cả đều dựa vào tòa án, vào hành chính, mà những thiết chế này chưa đủ linh hoạt để giải quyết. Hiện nay, xuất hiện nhiều vấn đề mới như AI, kinh tế xanh, kinh tế chuyển đổi... những vấn đề mà hầu như hệ thống pháp luật của chúng ta chưa theo được.
 |
GS, TS Lê Hồng Hạnh. Ảnh: TUẤN HUY |
Trên thế giới, theo thống kê có đến 90% doanh nghiệp có các quan hệ quốc tế đều chọn trọng tài hòa giải để giải quyết tranh chấp, chỉ khoảng 10% lựa chọn tòa án. Lý do giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hòa giải giúp cho doanh nghiệp được chọn cách mình làm, được chọn người mình sử dụng để giải quyết những tranh chấp đó, được chọn địa điểm, được chọn quy tắc tố tụng để làm mà không bị phụ thuộc vào thiết chế tòa án. Do vậy, trong bối cảnh phát triển hiện nay, theo tôi, phương thức giải quyết tranh chấp thông qua thiết chế trọng tài cần phải được đặc biệt coi trọng. Tài phán trọng tài là tài phán dân chủ, tài phán dựa trên quyền tự quyết của doanh nghiệp, của người có tranh chấp và luôn luôn hướng tới một hiệu quả nhanh nhất, giải phóng tốt nhất nguồn lực cho doanh nghiệp. Vì thế mà 90% doanh nghiệp quốc tế lựa chọn phương thức trọng tài.
Phát triển thiết chế trọng tài, đặc biệt là các trung tâm trọng tài trong nước như Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) cũng góp phần củng cố vị thế pháp lý của doanh nghiệp Việt Nam ngay tại “sân nhà”. Việc lựa chọn trọng tài tại Việt Nam, với sự tham gia của đội ngũ trọng tài viên am hiểu pháp luật và thực tiễn kinh doanh trong nước, sẽ giúp doanh nghiệp giảm rủi ro pháp lý, tiết kiệm đáng kể chi phí so với việc theo đuổi vụ kiện tại nước ngoài, đồng thời cũng là những bước rèn luyện để sẵn sàng bảo vệ mình tại các vụ kiện ở nước ngoài nếu phải tham gia. Điều này tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp Việt Nam tự tin hơn ngay từ giai đoạn đàm phán và ký kết hợp đồng, lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp là trọng tài và có biện pháp ứng phó hiệu quả hơn khi xảy ra tranh chấp.
HÀ VŨ (ghi)
----------------
Đồng chí Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội:
Cải cách thực chất thể chế - trụ cột cho kinh tế tư nhân phát triển
Trong những năm qua, quyết tâm phát triển kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước đã thể hiện rõ ràng, nhất quán và mạnh mẽ. Tuy nhiên, nếu nhìn về trung và dài hạn, khối lượng công việc cần tiếp tục thực hiện để phát triển kinh tế, đặc biệt là khu vực tư nhân, vẫn còn rất lớn và đầy thách thức. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết: Cần hoàn thiện thể chế, đồng thời duy trì động lực và hiệu quả của quá trình cải cách một cách bền vững.
 |
Đồng chí Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội. |
Năm 2025 được kỳ vọng là dấu mốc quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân, khi Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4-5-2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân được ban hành. Lần đầu tiên Đảng xác định rõ khu vực tư nhân là khu vực quan trọng nhất trong nền kinh tế-một sự thay đổi lớn về quan điểm phát triển. Nghị quyết số 68-NQ/TW cũng đưa ra 3 điểm đột phá so với các chính sách trước đây: Đó là cắt giảm phiền hà, cắt giảm rủi ro; tăng sự bảo vệ và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn; khơi thông và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nâng cao chất lượng khu vực kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên, yêu cầu cấp thiết đặt ra đó là phải thực thi đầy đủ, mạnh mẽ, đưa nghị quyết vào đời sống, “nếu không, nghị quyết vẫn chỉ là nghị quyết”. Để không rơi vào tình trạng “đánh trống bỏ dùi”, trách nhiệm thực thi là yếu tố then chốt để biến nghị quyết thành hiện thực.
Thời gian qua, việc thực thi Nghị quyết số 68-NQ/TW đã đạt được những kết quả bước đầu. Tại kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XV đã thông qua 34 luật, 14 nghị quyết quy phạm pháp luật thể chế hóa nhiều quan điểm, tinh thần của Nghị quyết số 68-NQ/TW. Trong đó, đáng lưu ý, Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân mở ra kỳ vọng rất lớn cho khu vực kinh tế tư nhân. Nghị quyết này đánh dấu lần đầu tiên có văn bản pháp lý quy định rõ không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự. Chính phủ cũng đã đưa ra mục tiêu trong năm 2025 cắt giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính; giảm ít nhất 30% chi phí kinh doanh; bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết; thực hiện các thủ tục liên quan đến doanh nghiệp trên môi trường điện tử, bảo đảm thông suốt, liền mạch, hiệu quả của Chính phủ.
Có thể nói, cải cách thể chế một cách thực chất sẽ giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn, cũng tạo ra những cạnh tranh lành mạnh hơn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, chỉ có cạnh tranh lành mạnh mới nâng cao chất lượng doanh nghiệp và chỉ có những doanh nghiệp thành công bằng thực lực, chất lượng và ý tưởng của chính mình mới thực sự phát triển bền vững.
VŨ DUNG (ghi)
----------------
Đồng chí Trần Quang Dũng, Phó bí thư Thường trực Đảng ủy Tập đoàn Công nghiệp-Năng lượng quốc gia Việt Nam:
Nền tảng văn hóa doanh nghiệp - sức mạnh để Petrovietnam viết tiếp bản hùng ca
Bài học từ Cách mạng Tháng Tám cũng là cảm hứng xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển của Tập đoàn Công nghiệp-Năng lượng quốc gia Việt Nam (Petrovietnam).
 |
Đồng chí Trần Quang Dũng, Phó bí thư Thường trực Đảng ủy Tập đoàn Công nghiệp-Năng lượng quốc gia Việt Nam. |
Trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển, Petrovietnam đã không ngừng hoàn thiện hệ thống giá trị văn hóa, định hình các tài sản văn hóa gồm: Sổ tay văn hóa Petrovietnam với hệ giá trị cốt lõi “Khát vọng-trí tuệ-chuyên nghiệp-nghĩa tình” được xem như tế bào gốc kết tinh những phẩm chất tốt đẹp nhất của “người dầu khí”; xuất bản “Lược sử ngành dầu khí Việt Nam” và hàng chục đầu sách; các thiết chế văn hóa phục vụ giáo dục lịch sử, truyền thống được đưa vào hoạt động; hệ thống nhận diện thương hiệu mang khát vọng vươn lên của Petrovietnam trong thời kỳ mới; các ca khúc sáng tác mới, các tập phim ký sự cùng những chương trình nghệ thuật lấy cảm hứng từ cuộc sống, lao động gian nan, thử thách nhưng cũng đầy tự hào, thể hiện các giá trị văn hóa đã thấm sâu vào nếp nghĩ, cách làm của mọi cán bộ, công nhân viên Petrovietnam, trở thành “chất keo” gắn kết tập thể và là sức mạnh mềm giúp Tập đoàn không ngừng phát triển.
Chính nền tảng văn hóa và sự đồng thuận đã giúp Petrovietnam xử lý thành công hàng loạt dự án khó khăn kéo dài, hồi sinh các công trình trọng điểm, khai thông nguồn lực đầu tư, nâng cao hiệu quả tài sản, phục hồi tăng trưởng mạnh mẽ. Tập đoàn đã hoàn thành toàn diện, vượt mức 12/12 chỉ tiêu, về đích trước từ một đến hai năm so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2020-2025 đặt ra và vượt kế hoạch 5 năm (2021-2025) từ 38 đến 46% về lợi nhuận và nộp ngân sách, tăng trưởng rất cao so với giai đoạn 2016-2020. Tổng doanh thu toàn Tập đoàn tương đương 9,2% tổng sản phẩm trong nước (GDP) cả nước; tổng nộp ngân sách nhà nước toàn Tập đoàn chiếm tỷ trọng 9,5% tổng thu ngân sách nhà nước.
Từ nền móng đã được hun đúc bằng trí tuệ, ý chí và tinh thần đoàn kết, Petrovietnam bước vào kỷ nguyên mới với tâm thế kiến tạo, tầm nhìn rộng mở và bản lĩnh đã được tôi luyện qua thử thách. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, hành trình phía trước chính là bản hùng ca tiếp nối-nơi ý chí hội tụ, niềm tin lan tỏa và khát vọng vươn xa, dẫn lối cho một tương lai phát triển hùng cường, đóng vai trò nòng cốt trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế độc lập, công nghiệp hiện đại và an ninh năng lượng quốc gia bền vững.
KHÁNH AN (ghi)
-------------------
Đại tá Nguyễn Mạnh Hải, Trưởng ban Công nghiệp công nghệ cao, Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel):
Phát triển công nghiệp quốc phòng để tăng cường tiềm lực quốc gia
Công nghiệp quốc phòng (CNQP) là một phần quan trọng của thực lực và tiềm lực quốc phòng, an ninh; là bộ phận của công nghiệp quốc gia. CNQP không chỉ góp phần quan trọng bảo đảm quốc phòng, an ninh của các quốc gia mà còn là một ngành công nghiệp quan trọng tạo ra việc làm, giá trị gia tăng và xuất khẩu; tham gia vào phát triển kinh tế khu vực, thúc đẩy phát triển nhiều ngành công nghiệp khác thông qua đổi mới sáng tạo. Vai trò trọng yếu của CNQP trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc được xác định tại nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước.
 |
Đại tá Nguyễn Mạnh Hải, Trưởng ban Công nghiệp công nghệ cao, Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel). |
Từ năm 2010, Viettel đã tham gia phát triển CNQP, khởi đầu bằng việc nghiên cứu, chế tạo máy thông tin quân sự và ra-đa để đáp ứng nhu cầu của Quân đội. Thông qua những thành công bước đầu cùng với sự tích lũy về nguồn lực con người và tài chính, dưới sự định hướng, chỉ đạo sát sao của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Viettel đã tự tin nghiên cứu, chế tạo thành công nhiều sản phẩm CNQP công nghệ cao khác.
Đến nay, sau 15 năm tham gia phát triển CNQP, Viettel đã đạt được những thành công đáng khích lệ trong nghiên cứu, phát triển, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật (VKTBKT) công nghệ cao. Viettel đã nghiên cứu, làm chủ hơn 70 dòng sản phẩm VKTBKT thuộc 11 lĩnh vực. Các sản phẩm của Viettel đã được trang bị cho Quân đội và tham gia nhiều triển lãm quốc phòng lớn trong nước và quốc tế, được các đối tác đánh giá cao, từ đó khẳng định năng lực của Viettel và mở ra nhiều cơ hội hợp tác, kinh doanh; tiết kiệm ngân sách nhà nước, tăng cường năng lực tự chủ VKTBKT cho Quân đội.
Định hướng về phát triển CNQP gắn với phát triển kinh tế-xã hội trong thời gian tới, Viettel xác định phải tập trung phát triển công nghệ và sản phẩm công nghệ chiến lược, làm nền tảng thực hiện mục tiêu kép là phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng. Đồng thời, phát triển công nghệ, sản phẩm lưỡng dụng, làm cầu nối giữa phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực tiễn các nước cho thấy, nhiều công nghệ, sản phẩm quân sự có khả năng ứng dụng trong dân sự và ngược lại như công nghệ bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, vật liệu, hàng không... Ngày nay, các doanh nghiệp CNQP hàng đầu trên thế giới đều phát triển theo hướng lưỡng dụng. Vì vậy, ở nước ta, cần đẩy mạnh hơn nữa việc hình thành các tập đoàn CNQP lưỡng dụng, có năng lực cạnh tranh quốc tế, nâng cao vị thế quốc gia trong lĩnh vực kinh tế, công nghệ và quốc phòng, an ninh.
Bên cạnh đó, cần tăng cường đầu tư cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong CNQP; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong khoa học và công nghệ quốc phòng, bên cạnh việc tiếp nhận công nghệ thành phần cần chú trọng việc chuyển giao công nghệ và sản phẩm từ Việt Nam ra bên ngoài, góp phần nâng cao vị thế của đất nước trong bản đồ khoa học, công nghệ và CNQP thế giới.
HOÀNG CHUNG (ghi)
-----------------------
Thiếu tướng, PGS, TS, NGND NGUYỄN BÁ DƯƠNG, Phụ trách Nhóm Chuyên gia 35, Quân ủy Trung ương:
Giữ vững tư tưởng chính trị để bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa
Đảng ta xác định, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chúng ta tập trung hàng đầu cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng vẫn không lơi lỏng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Trong các nhiệm vụ đó thì xác định đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái là nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình.
 |
Thiếu tướng, PGS, TS, NGND NGUYỄN BÁ DƯƠNG, Phụ trách Nhóm Chuyên gia 35, Quân ủy Trung ương. |
Nhiệm vụ đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái của địch được thực hiện xuyên suốt. Ngay sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã chỉ đạo các cơ quan tuyên huấn, báo chí của Quân đội làm tốt công tác bảo vệ tư tưởng của Đảng, trung thành theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định đường lối đổi mới của Đảng trong thời điểm đó.
Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương được thành lập để đấu tranh tư tưởng, lý luận; phản bác các quan điểm sai trái; đấu tranh thông qua báo chí, văn hóa, văn nghệ... Đến ngày 8-1-2016, Tổng cục Chính trị ra Chỉ thị số 47/CT-CT về tổ chức lực lượng đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị trên không gian mạng trong Quân đội. Đến nay, lực lượng 47 rất hùng hậu và hoạt động rất tốt.
Báo Quân đội nhân dân đã có chuyên trang, chuyên mục chuyên sâu về đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình"; đấu tranh phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Qua 5 kỳ tổ chức Cuộc thi "Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới", Báo Quân đội nhân dân đã huy động hầu hết nhà khoa học, nhà chính luận, cán bộ, chiến sĩ toàn quân tham gia mặt trận này. Nhờ vậy đã thu hút được số lượng lớn độc giả quan tâm.
Cán bộ, chiến sĩ Quân đội đang kế thừa, tiếp thu tinh thần Cách mạng Tháng Tám trong thời kỳ mới, không bao giờ để đất nước bị động, bất ngờ, làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
HỒNG ANH (ghi)
----------------
Thạc sĩ Trần Thị Trang, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế (Bộ Y tế):
Hướng tới chủ trương miễn viện phí thông qua bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế (BHYT) là một trong hai trụ cột an sinh xã hội quan trọng luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm để xây dựng và hoàn thiện.
 |
Thạc sĩ Trần Thị Trang, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế (Bộ Y tế). |
Thực hiện chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, Thường trực Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Đảng ủy Chính phủ đã giao Đảng ủy Bộ Y tế phối hợp với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương và các cơ quan liên quan xây dựng, hoàn thiện Đề án để trình Bộ Chính trị ban hành nghị quyết về đột phá trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Dự thảo nghị quyết xác định các quan điểm, mục tiêu, giải pháp trọng tâm, đột phá để thực hiện hiệu quả các chỉ tiêu, nhiệm vụ về chăm sóc sức khỏe nhân dân, tập trung giải quyết các vấn đề tạo hiệu quả rõ nét để đáp ứng mong muốn, kỳ vọng của nhân dân, hướng tới chủ trương miễn viện phí thông qua chính sách BHYT. Dự kiến, từ năm 2026, mỗi người dân được khám sức khỏe định kỳ hoặc khám sàng lọc theo yêu cầu chuyên môn miễn phí ít nhất mỗi năm 1 lần; đến năm 2035, phấn đấu người dân được BHYT chi trả chi phí khám, chữa bệnh ở mức cơ bản trong phạm vi quyền lợi BHYT; đến năm 2045, các chỉ số sức khỏe của người dân, chỉ số bao phủ dịch vụ y tế thiết yếu tương đương với các nước phát triển.
Sau hơn 15 năm triển khai thực hiện Luật BHYT, chính sách BHYT đã từng bước phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng, khẳng định tính đúng đắn và phù hợp trong việc lựa chọn chính sách tài chính y tế thông qua BHYT, tạo nguồn tài chính bền vững cho chăm sóc sức khỏe, tiếp cận mục tiêu bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân. Trong đó, tỷ lệ bao phủ BHYT gia tăng nhanh chóng. Số lượt người có thẻ BHYT đi khám, chữa bệnh tăng nhanh qua từng năm. Quyền lợi về khám, chữa bệnh BHYT tương đối toàn diện và ngày càng được mở rộng. Danh mục thuốc, thiết bị y tế, dịch vụ kỹ thuật được sử dụng theo năng lực chuyên môn, tuyến chuyên môn kỹ thuật vừa để bảo đảm quyền lợi của người tham gia BHYT khi đến cơ sở y tế, vừa là yêu cầu nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của cơ sở y tế. Với ý nghĩa nhân văn sâu sắc của chính sách BHYT cùng với sự nỗ lực, tận tâm của đội ngũ làm công tác BHYT, sự chung tay của cả hệ thống chính trị, những thành tựu đã đạt được là cơ sở để chính sách BHYT tiếp tục củng cố và phát triển bền vững; đáp ứng nhu cầu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe của nhân dân và yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới.
DIỆP CHÂU (ghi)
---------------
PGS, TS Trần Chủng, Chủ tịch Hiệp hội Các nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Giám định Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng (Bộ Xây dựng):
Tăng tốc phát triển từ hạ tầng giao thông
Đổi mới sáng tạo chính là bệ phóng của những thành công trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông suốt thời gian qua. Trong hàng loạt dự án giao thông đã hoàn thành, một số công trình được coi như điểm nhấn để lại nhiều ấn tượng về đổi mới sáng tạo, đột phá kỹ thuật, công nghệ xây dựng, có ý nghĩa đặc biệt về kinh tế và giá trị nhân văn, tạo cảm xúc tự hào trong mỗi người dân. Trước hết là cầu Mỹ Thuận-công trình dây văng hai mặt phẳng dây có khẩu độ lớn nhất (350m) lần đầu tiên được xây dựng ở nước ta có dáng kiến trúc tuyệt đẹp tô thêm vẻ kỳ vỹ của sông Tiền.
 |
PGS, TS Trần Chủng, Chủ tịch Hiệp hội Các nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Giám định Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng (Bộ Xây dựng). |
Hầm đường bộ xuyên núi qua đèo Hải Vân nối Huế và Đà Nẵng trở thành hầm đường bộ dài nhất Đông Nam Á, thay thế cho đường đèo Hải Vân với nhiều khúc cua nguy hiểm. Hầm xuyên đèo Cả, gạch nối Đắk Lắk và Khánh Hòa là biểu tượng của đổi mới sáng tạo toàn diện trong từ công nghệ, thiết bị, vật liệu, tổ chức quản lý, cơ chế, chính sách, mô hình đầu tư và quản lý, vận hành. Từ công trình này, công nghệ xây dựng hầm xuyên núi không còn là một công nghệ chỉ người nước ngoài mới thực hiện được. Hơn 30km đường hầm xuyên núi của các tuyến đường cao tốc đều do người Việt Nam thiết kế, thi công và vận hành an toàn tuyệt đối. Không chỉ có những công trình đang mang lại các giá trị cho đất nước, ngành giao thông đã xây dựng được đội ngũ nhân sự ngày càng trưởng thành và lớn mạnh.
Sự phát triển của khoa học, công nghệ trong xây dựng và quy mô của các công trình ngày càng phức tạp đòi hỏi năng lực sáng tạo của các nhà thầu nhiều hơn chứ không chỉ thuần túy dựa vào kinh nghiệm. Các doanh nghiệp xây dựng muốn tồn tại phải thực sự có tâm thế “vượt vũ môn” bằng tri thức về khoa học quản trị theo hướng chuyên nghiệp hóa, trong đó coi trọng chất lượng nguồn nhân lực, thiết bị và nguồn lực tài chính. Cùng với các thách thức đặt ra như hoàn thành 5.000km đường cao tốc đến năm 2030, chúng ta phải chọn các công nghệ hoặc giải pháp công trình hiện đại, thân thiện với môi trường. Việc không can thiệp “thô bạo vào tự nhiên” còn có giá trị rất lớn về phát triển bền vững mà không thể đo đếm bằng tiền.
Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam và các công trình đường sắt đô thị, các cảng hàng không lớn như sân bay quốc tế Long Thành, cảng biển quốc tế... là những thách thức của đổi mới sáng tạo để người Việt tiếp tục đóng góp trí tuệ, khát vọng vì một hệ thống hạ tầng giao thông hiện đại. Hệ thống hạ tầng giao thông thực sự tạo không gian phát triển theo hướng bền vững, tạo động lực lan tỏa, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội cho các vùng miền, địa phương trên cả nước.
MẠNH HƯNG (ghi)
* Mời bạn đọc vào chuyên mục 80 năm hành trình độc lập - tự do - hạnh phúc xem các tin, bài liên quan.