Quá trình thực hiện, đến nay đã nhận thức ngày càng rõ hơn về mục tiêu, đặc trưng và cơ chế vận hành của nền KTTT định hướng XHCN. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện, tạo khung pháp lý đồng bộ, thuận lợi hơn cho sự vận hành của nền KTTT định hướng XHCN. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, bình đẳng và thông thoáng hơn, nâng cao hơn vai trò, sức cạnh tranh của các chủ thể, các loại hình doanh nghiệp; huy động tốt hơn các nguồn lực trong và ngoài nước; tạo nhiều việc làm mới, góp phần nâng cao sức sản xuất của xã hội. Các yếu tố thị trường, các loại thị trường được hình thành ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Hầu hết các loại giá đã vận hành theo nguyên tắc thị trường; thực hiện cơ chế giá thị trường có sự quản lý của Nhà nước đối với một số loại hàng hóa-dịch vụ thiết yếu. Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế-xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO; đã và đang đàm phán, ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương thế hệ mới.
Tuy nhiên, KTTT ở Việt Nam cũng bộc lộ một số hạn chế, yếu kém cần sớm có những giải pháp đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả hơn. Kế thừa kinh nghiệm, kết quả 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, để triển khai có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, cần tập trung lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là, trong thiết kế và vận hành thể chế KTTT định hướng XHCN, cần phải tiếp tục hoàn thiện đồng bộ 3 bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế có quan hệ hữu cơ: (1) Hệ thống pháp luật, quy tắc, chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi và giao dịch kinh tế; (2) Các thể chế về chủ thể và các yếu tố, các loại thị trường trong nền kinh tế; (3) Cơ chế thực thi, kiểm tra, giám sát, điều chỉnh và xử lý vi phạm trong nền kinh tế. Trên cơ sở đó tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức về thể chế KTTT và phát triển nền KTTT định hướng XHCN; đồng thời nghiên cứu làm rõ nội dung mô hình kinh tế tổng quát về phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế tuân theo các quy luật của KTTT có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, có hệ thống đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường; các chủ thể thị trường được cạnh tranh tự do theo pháp luật; giá cả được hình thành trên cơ sở cung-cầu và quy luật giá trị; thị trường ngày càng đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển và là một bộ phận hữu cơ của thị trường thế giới; Nhà nước đóng vai trò phục vụ, tạo khung pháp lý, hỗ trợ và quản lý phát triển nền kinh tế, tôn trọng các nguyên tắc và các quy luật của KTTT. Các nguồn lực của Nhà nước được phân bổ theo chiến lược, kế hoạch, quy hoạch và theo cơ chế thị trường.
Phát triển nền KTTT định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, định hướng, cùng với các công cụ và chính sách khác để Nhà nước điều tiết nền kinh tế đảm bảo phát triển bền vững. Kinh tế tư nhân là một động lực phát triển quan trọng của nền kinh tế. Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Thể chế hóa quyền tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được xác lập trong Hiến pháp năm 2013. Bảo đảm minh bạch về nghĩa vụ, trách nhiệm trong thủ tục hành chính Nhà nước và dịch vụ công; quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền sở hữu, nhất là các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế.
Có chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở đẩy mạnh cổ phần hóa, bán vốn mà Nhà nước không cần nắm giữ theo nguyên tắc thị trường. Hoàn thiện thể chế định giá tài sản, kể cả đất đai, tài sản vô hình trong cổ phầnhóa. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. Khẩn trương nghiên cứu để sớm thành lập cơ quan chuyên trách ngang bộ làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước. Mở rộng chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công về tổ chức bộ máy, biên chế, nhân sự và tài chính. Áp dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp cho các đơn vị sự nghiệp công có nhu cầu và điều kiện. Tiếp tục đổi mới kinh tế hợp tác và khu vực hợp tác xã, phát triển, nhân rộng các hợp tác xã kiểu mới, nhất là trong nông nghiệp, tăng cường chính sách thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, chủ động lựa chọn và ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý, công nghệ hiện đại, có vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với các doanh nghiệp trong nước trong phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Ba là, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; từng bước, theo lộ trình thực hiện mở cửa, gắn kết thị trường dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ với thị trường khu vực và thế giới; đẩy mạnh cơ cấu lại thị trường tài chính, nhất là tái cơ cấu thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, hệ thống ngân hàng thương mại và xử lý nợ xấu của nền kinh tế (bao gồm nợ xấu của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp...). Thực hiện các chính sách tín dụng, lãi suất, tỷ giá, các công cụ của Ngân hàng Nhà nước theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thị trường bất động sản được vận hành thông suốt, phù hợp cung-cầu. Đổi mới chính sách để khai thác có hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất. Xây dựng các thể chế hình thành thị trường sơ cấp, thứ cấp về đất đai, kể cả đất nông nghiệp thay thế cho cách thức giao đất, cho thuê đất, bảo đảm thị trường về đất đai hoạt động công khai, minh bạch và trật tự. Hoàn thiện thể chế về giá, phí, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho người nghèo, đối tượng chính sách. Không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá. Hoàn thiện pháp luật về phí và lệ phí; rà soát, chuyển đổi chính sách phí, lệ phí đối với một số dịch vụ công sang áp dụng chế độ giá dịch vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá. Hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Bốn là, hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội trong từng chương trình, dự án; trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.Chú trọng nghiên cứu, ban hành đồng bộ các chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội. Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất, tăng tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân.
Năm là, hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng, quy hoạch và phân công, phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương. Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của từng địa phương, khắc phục không gian kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Tạo lập thể chế kinh tế đặc thù, đẩy mạnh cho các địa phương, vùng kinh tế trọng điểm thực sự trở thành đầu tàu, động lực lan tỏa vùng ngoại vi và cả nước. Hoàn thiện thể chế phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương, vừa bảo đảm tập trung thống nhất của nền kinh tế, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Đổi mới hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia và địa phương.
Sáu là, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động hội nhập quốc tế, tham gia và khai thác có hiệu quả lợi ích kinh tế các hiệp định tự do hóa kinh tế song phương và đa phương, gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể. Hoàn thiện thể chế phòng ngừa và giảm thiểu tranh chấp quốc tế; sớm hoàn thiện tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế. Xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách hội nhập kinh tế liên ngành, liên lĩnh vực, kiểm soát tốt các khâu gắn kết giữa chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đầu tư và bảo hộ đầu tư, chính sách quản lý cạnh tranh và điều tiết thị trường, chính sách lao động và thị trường lao động, chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thị trường khoa học công nghệ, chính sách môi trường...
Bảy là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế-xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế-xã hội. Tiếp tục điều chỉnh, hoàn chỉnh chức năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của các cấp ủy, chính quyền trong phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện KTTT định hướng XHCN. Nhà nước tập trung ổn định kinh tế vĩ mô; thiết lập khung pháp luật, chính sách và bộ máy thực thi bảo đảm các loại thị trường liên tục được hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả, có cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát hiệu quả độc quyền kinh doanh dưới mọi hình thức; tổ chức cung ứng các loại dịch vụ công ích, thiết yếu; giảm bất công, bất bình đẳng về thu nhập, phúc lợi và thực hiện các nhiệm vụ xã hội khác. Tăng cường năng lực thiết kế tổng thể và giám sát quá trình thực hiện đổi mới thể chế kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, có sức cạnh tranh cao. Tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực; phát huy mặt tích cực của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Bảo đảm sự tham gia có hiệu quả của các tổ chức chính trị, xã hội, xã hội-nghề nghiệp trong xây dựng thể chế kinh tế và phát triển kinh tế-xã hội. Định kỳ kiểm tra, giám sát cơ quan Nhà nước trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về kinh tế-xã hội.
TS HOÀNG XUÂN HÒA (Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương)