Đàn ông Việt Nam mắc ung thư cao thứ 3 thế giới

PGS, TS Trần Văn Thuấn, Phó giám đốc Bệnh viện K Trung ương, Viện trưởng Viện nghiên cứu phòng chống ung thư Việt Nam cho biết, ung thư đang trở thành “thảm họa sức khỏe thầm nặng”, là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu cũng như tại châu Á và Việt Nam. Theo nghiên cứu của WHO, hiện mỗi năm thế giới có thêm 14 triệu ca mắc mới và 8,2 triệu ca tử vong. Con số này tiếp tục tăng thêm trong những năm tới. Ước tính đến năm 2030 sẽ có khoảng 22 triệu ca mắc mới và 13,2 triệu ca tử vong. 70% số ca tử vong xảy ra ở các nước có mức thu nhập thấp và trung bình như Việt Nam. Châu Á có 3,5 triệu ca mắc mới năm 2002 và dự kiến tăng lên 8,1 triệu ca vào năm 2020. Hầu hết các bệnh ung thư ở nam giới có xu hướng tăng lên. Tỷ lệ mắc ung thư ở nam giới trên 100.000 dân của toàn cầu được xếp theo 5 mức độ: trên 281,2; 178,3-281,1; 135,2-178,3; 89,8-135,2 và dưới 89,8. Ví dụ với ung thư phổi, tỷ lệ mắc trên 100.000 người vào năm 2000 là 29,3 sau 10 năm lên tới 35,1. Hiện nay mỗi năm có 125.000 ca mắc mới và 95.000 ca tử vong, trong đó nam chiếm khoảng 56,8%, nữ 43,2%. Tính trung bình, tỷ lệ ung thư của nam giới hiện tại 142,5/100.000 dân; tỷ lệ này ở nữ từ 69 đến 78,2/100.000 trường hợp. Tại Việt Nam, trong bản đồ ung thư thế giới, tỷ lệ mắc ung thư ở nam giới Việt Nam được xếp ở mức cao thứ 3 với 135,2-178,3 ca mắc trên 100.000 người. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong nằm trong nhóm đầu tương đương một số nước khác với hơn 142 ca tử vong trên 100.000 người.

Bác sĩ thăm khám cho bệnh nhân sau mổ ung thư. 
Điều đáng nói người bệnh ung thư tại Việt Nam thường đến viện muộn, khi bệnh diễn biến nặng khó khăn trong điều trị, chi phí tốn kém và tử vong cao. Nam giới thường mắc các loại ung thư: Phổi, dạ dày, gan, đại trực tràng, thực quản, vòm họng, hạch, máu, tiền liệt tuyến, bàng quang. Nữ thường mắc các loại: Vú, đại trực tràng, phổi, cổ tử cung, dạ dày, tuyến giáp, gan, buồng trứng… Tỷ lệ tử vong do ung thư nam giới cao vì nam mắc những bệnh khó chữa như phổi, gan. Do chưa có kiến thức, nên phần lớn bệnh nhân ung thư ở Việt Nam đều được phát hiện ở giai đoạn muộn (khoảng 80%); và tỷ lệ tử vong sau chẩn đoán ung thư rất cao 75%. Ở nữ giới, tỷ lệ ung thư 116,6-139/100.000 dân; thấp hơn trung bình của nhiều nước. Tỷ lệ tử vong từ 69,2 đến 78,1%. Trong số các loại ung thư, ung thư cổ tử cung là duy nhất có xu hướng giảm, thể hiện hiệu quả của công tác tuyên truyền qua đó gián tiếp giảm tỷ lệ mắc tử cung.

Chi phí điều trị cho bệnh nhân ung thư quá lớn

Bà Tống Thị Song Hương, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế (BHYT), Bộ Y tế cho biết, ung thư không chỉ là gánh nặng y tế mà còn là gánh nặng rất lớn về kinh tế, xã hội. Chi phí điều trị ung thư hằng năm chiếm khoảng 10% tổng chi phí khám chữa bệnh BHYT. Hiện có 65 thuốc điều trị ung thư, trong đó có 13 thuốc được thanh toán 50% BHYT song chi phí chi trả vẫn rất lớn như: Thuốc Gliver  điều trị ung thư máu 500 triệu đồng/năm, Erlotinib điều trị ung thư phổi 40 triệu đồng/tháng, Sorafenib điều trị ung thư gan 118 triệu/tháng, Cetuximab điều trị ung thư trực tràng 85-90 triệu/tháng… Nếu bệnh nhân không được hỗ trợ, không tuân thủ phác đồ, bỏ điều trị, không tiếp cận thuốc mới, ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị…

Theo PGS, TS Thuấn, tổng gánh nặng 6 loại ung thư hay mắc ở Việt Nam gồm: Ung thư vú, cổ tử cung, gan, đại trực tràng; dạ dày, khoang miệng, khoảng 25.789 tỷ đồng, chiếm 0,22% tổng GDP năm 2012.

Bác sĩ Phạm Cẩm Phương, Phó giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu (Bệnh viện Bạch Mai) cho biết, bệnh nhân ung thư ở các nước nghèo và có thu nhập trung bình như Việt Nam với những hạn chế về hệ thống BHYT có nguy cơ bị bần cùng hóa đặc biệt cao. Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện K và Bệnh viện Ung bướu TP Hồ Chí Minh đã nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của bệnh ung thư đến tình hình kinh tế và tài chính trong 12 tháng tới những hộ gia đình bị ung thư.  Bệnh nhân đi điều trị ung thư 95,3% là do bệnh nhân và người thân tự chi trả, 62,64% là do bảo hiểm, số chi trả theo nguồn khác rất thấp. Đặc biệt, có 77,1% bệnh nhân tham gia nghiên cứu có bảo hiểm, 22,9% không có bảo hiểm. Bác sĩ Phạm Cẩm Phương nhấn mạnh, do chi phí cho điều trị ung thư quá lớn, nên nhiều người giàu cũng trở thành nghèo. Chi phí trung bình cho một lần nhập viện đầu tiên khoảng từ 7 triệu tới hơn 100 triệu, thậm chí có người cả tỷ đồng. Vì thế, hầu hết các bệnh nhân điều trị ung thư đều phải đi vay mượn, bán tài sản…

Tại hội nghị, ông Nguyễn Minh Thảo, Phó tổng giám đốc BHXH Việt Nam nhấn mạnh, BHYT chi trả chi phí điều trị cho bệnh nhân ung thư là rất lớn, có những người một lượt điều trị chi phí từ 500 triệu đến 1 tỷ đồng, nhưng thực tế có trường hợp chi trả nhầm. Hiện tại, cả nước có hơn 50 cở sở đang chẩn đoán, điều trị ung thư. Song có những bệnh nhân sau một thời gian điều trị xác định lại không phải bị UT trong khi bảo hiểm vẫn chi trả. Vì vậy, ông Thảo đề nghị Bộ Y tế cần ban hành quy định xác định những cơ sở đủ điều kiện chẩn đoán chính xác ung thư được công nhận, các cơ sở chẩn đoán khác thì cần phải đảm bảo bao nhiêu đơn vị xét nghiệm công nhận mới được coi là ung thư nhằm đảm bảo chẩn đoán chính xác bệnh ung thư. Bởi bệnh ung thư tác động rất nhiều tới tâm lý, sức khỏe, đặc biệt việc điều trị sai thuốc ung thư cũng gây độc cho tế bào lành, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe, trong khi chi phí điều trị vô cùng tốn kém. Vì vậy, BHXH Việt Nam đề nghị cần có danh sách bệnh viện đủ điều kiện xác định ung thư để điều trị và BHYT chỉ chi trả cho các bệnh nhân được xác định đúng ở cơ sở y tế.

Tránh bệnh + đi viện sớm = hy vọng sống

Các bác sĩ chuyên về ung thư cho biết, ung thư đang là căn bệnh “giết người”, chỉ sau bệnh tim mạch. Tuy nhiên, hầu hết các căn bệnh ung thư hiện nay khoa học vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân chính xác gây bệnh, mà chỉ xác định được các yếu tố nguy cơ. Bởi vậy, việc trang bị những kiến thức phòng bệnh ung thư là vô cùng quan trọng. Nghiên cứu cho thấy, có tới hơn 80% nguyên nhân gây ung thư là do môi trường bên ngoài, trong đó chủ yếu là hút thuốc và chế độ dinh dưỡng không hợp lý chiếm tới 65% nguyên nhân gây bệnh. Các yếu tố khác phải kể đến là làm việc trong môi trường có các chất độc hại, nhiễm một số loại virus, vi khuẩn, ký sinh trùng. Nhờ việc từ bỏ thói quen xấu như hút thuốc và xây dựng một lối sống lành mạnh, xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý, luyện tập thể dục thể thao, tránh béo phì, chúng ta có thể phòng ngừa được phần lớn các bệnh ung thư ở người.

Đặc biệt, điều cần lưu ý là, ung thư không phải là căn bệnh vô phương cứu chữa. 1/3 người mắc ung thư có thể chữa khỏi được nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Hơn nữa, với các phương pháp điều trị hiện nay, chúng ta có thể kéo dài thời gian sống, nâng cao chất lượng cuộc sống cho 1/3 bệnh nhân ung thư còn lại. Bệnh ung thư càng được phát hiện sớm thì điều trị càng đơn giản, hiệu quả cao, chi phí thấp. Vì vậy, người bệnh nên đi kiểm tra sức khỏe định kỳ 6 tháng/lần, kiểm soát sớm ung thư và đi khám ngay khi có dấu hiệu nghi ngờ.

Qua một số nghiên cứu khảo sát giai đoạn người bệnh đến khám và điều tri tại các cơ sở khám chữa bệnh: mức 1 gọi là sớm gồm giai đoạn 0,1,2  và giai muộn là 3,4. Thống kê, hầu hầu hết các loại ung thư vú, trực tràng, cổ tử cung, phổi, gan người bệnh đều đến khám ở giai đoạn muộn. Với bệnh nhân ung thư gan, 87,8% đến khám ở giai đoạn muộn, phổi tương ứng 84,3%. Một số bệnh ung thư nữ giới như: Vú, cổ tư cung… tỷ lệ giai đoạn muộn giảm đáng kể nhờ chính sách sàng lọc.

Trong giai đoạn 2011-2015, chiến lược quốc gia phòng, chống ung thư đã tiến hành sàng lọc, phát hiện sớm bệnh cho 532.000 người (chủ yếu ở các thành phố lớn) đối với các loại ung thư: Vú, cổ tử cung, đại trực tràng, ung thư khoang miệng. Kết quả khám lâm sàng tuyến vú có bất thường là hơn 20%, tỷ lệ phát hiện ung thư vú là 63,7/100.000 phụ nữ. Kết quả xét nghiệm tế bào học có tỷ lệ bất thường chiếm 53-75%, tỷ lệ ung thư cổ tử cung phát hiện qua khám sàng lọc là 22,6/100.000 phụ nữ. Tỷ lệ phát hiện các tổn thương bất thường ở khoang miệng (chủ yếu là viêm nhiễm) chiếm 10-13% và tỷ lệ phát hiện ung thư khoang miệng qua khám sàng lọc là 15/100.000 dân...

Bài và ảnh: THÙY LINH