Đó là các bác sĩ, điều dưỡng của Khoa Truyền nhiễm, những người lính khoác áo blouse trắng, không quản hiểm nguy, sẵn sàng đối mặt với rủi ro phơi nhiễm để giành lại sự sống, niềm tin cho bệnh nhân HIV/AIDS. Trong cuộc chiến không tiếng súng ấy, họ là những “lá chắn thầm lặng”, kiên cường, tận tụy và chan chứa tình người.

35 năm ứng phó với HIV/AIDS, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trong phát hiện, điều trị và dự phòng lây nhiễm. Đằng sau những con số thống kê là hàng nghìn nhân viên y tế ngày đêm nỗ lực, kiên cường đối mặt với nguy cơ phơi nhiễm, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng và hiện thực hóa mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030. Góp phần không nhỏ vào hành trình đó, các y, bác sĩ Khoa Truyền nhiễm, Bệnh viện Quân y 103 (Học viện Quân y) đang nỗ lực giành lại sự sống, niềm tin cho bệnh nhân HIV/AIDS.

 Đại tá, PGS, TS Lê Văn Nam, Chủ nhiệm Bộ môn-Khoa Truyền nhiễm (Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y) tư vấn cho bệnh nhân. Ảnh: TUẤN DŨNG 


Gian nan nơi tuyến đầu

Như lời hẹn, chúng tôi đến Bệnh viện Quân y 103 (Học viện Quân y) để gặp Đại tá, PGS, TS Lê Văn Nam, Chủ nhiệm Bộ môn-Khoa Truyền nhiễm. Từ sáng sớm, các y, bác sĩ, điều dưỡng nơi đây đã khẩn trương xử lý công việc. Bước vội từ phòng giao ban về, PGS, TS Lê Văn Nam chia sẻ: “Khoa càng được mở rộng thì lại càng nhiều bệnh nhân. Không bệnh nhân nào giống bệnh nhân nào. Tại khoa này, mỗi y, bác sĩ, điều dưỡng đều biết rõ đang làm việc trong môi trường tiềm ẩn nhiều nguy cơ, nhưng chưa ai lùi bước. Bởi với chúng tôi điều quan trọng nhất là bệnh nhân được cứu sống, được tiếp tục sống có ý nghĩa. Đặc biệt là đối với bệnh nhân HIV/AIDS”.

Công việc điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS luôn là một thử thách đặc biệt, không chỉ bởi mức độ phức tạp của căn bệnh mà còn bởi những rào cản vô hình về tâm lý và xã hội. Ngay cả khi y học đã có nhiều tiến bộ, những bác sĩ tại Khoa Truyền nhiễm vẫn phải đối diện với muôn vàn khó khăn trong từng ca bệnh. “Trước đây, bệnh nhân HIV/AIDS thường nhập viện trong tình trạng nặng, nhiều người đã suy kiệt do phát hiện muộn hoặc bỏ điều trị. Có người mang trong mình nhiều bệnh cơ hội cùng lúc như lao, viêm phổi, nhiễm nấm, viêm màng não... Mỗi ca bệnh là một bài toán điều trị phức tạp, đòi hỏi sự kiên trì và phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên khoa”, PGS, TS Lê Văn Nam tâm sự.

Đằng sau câu nói giản dị ấy là tinh thần của những người thầy thuốc mặc áo lính. Họ là người bạn đồng hành của những bệnh nhân từng tuyệt vọng nhất. Bằng chuyên môn, lòng nhân ái và ý chí kiên cường, họ đã biến nơi điều trị HIV/AIDS thành nơi mang hy vọng của sự sống, nơi niềm tin được hồi sinh. Một dấu ấn đặc biệt trong công tác điều trị HIV/AIDS là chương trình hợp tác giữa Khoa Truyền nhiễm và Hải quân Hoa Kỳ từ năm 2005 trong khuôn khổ Chương trình Kế hoạch khẩn cấp của Tổng thống Hoa Kỳ về cứu trợ AIDS (PEPFAR) do Cục Quân y chỉ đạo. Khu điều trị dành riêng cho bệnh nhân HIV/AIDS được xây dựng trong khuôn viên Bệnh viện. Tại đây, mỗi năm, hàng trăm bệnh nhân được khám, tư vấn và điều trị, góp phần không nhỏ vào việc kéo dài tuổi thọ và nâng cao chất lượng sống cho người nhiễm HIV. Được giao nhiệm vụ là tuyến cuối điều trị bệnh nhân HIV/AIDS toàn quân khu vực phía Bắc, các bác sĩ-chiến sĩ áo trắng của Khoa Truyền nhiễm đã lặng lẽ gánh trên vai trọng trách nặng nề nhưng cao quý. Với họ, điều trị HIV/AIDS không chỉ là chữa bệnh mà còn là trao niềm tin và cơ hội sống cho những người từng bị xã hội xa lánh.

Chữa bệnh bằng khoa học, giữ bệnh nhân bằng tình người

Tại nơi đây, nhiều bệnh nhân còn mang tâm lý mặc cảm, sợ bị kỳ thị nên giấu bệnh, thậm chí từ chối điều trị. Có người đến viện trong im lặng, không dám khai thật tiền sử bệnh, khiến bác sĩ phải vừa điều trị vừa dò tìm manh mối để kịp thời xử trí. Nhưng điều khiến các thầy thuốc trăn trở hơn cả không phải là nguy cơ lây nhiễm, mà là nỗi cô đơn của người bệnh. Có người bị gia đình xa lánh, có người đến bệnh viện điều trị nhưng không có người chăm, chỉ có bác sĩ và điều dưỡng là chỗ dựa tinh thần. PGS, TS Lê Văn Nam nhớ lại: “Tôi đã điều trị cho một bạn sinh viên, khi biết mình nhiễm HIV đã sốc nặng, bởi bạn bị chính bố mẹ-những trí thức có địa vị trong xã hội cô lập, kỳ thị ngay trong chính ngôi nhà của mình. Lẽ ra ngôi nhà có cha, có mẹ phải là ngôi nhà hạnh phúc nhưng với bạn sinh viên ấy thì đó là một “nhà tù” bởi bạn phải ăn ở riêng biệt trong một căn phòng ở trên tầng. May mắn là sau điều trị, bạn ấy khỏe mạnh, có vợ, có con và sống hạnh phúc”.

15 năm kể từ ngày về công tác tại Khoa Truyền nhiễm, Trung tá, TS, bác sĩ Đỗ Thị Lệ Quyên, Phó chủ nhiệm Khoa Khám bệnh, giảng viên Bộ môn Truyền nhiễm, Bệnh viện Quân y 103, đã chứng kiến không ít câu chuyện buồn nhiều hơn vui. Bác sĩ Quyên kể cho chúng tôi nghe về một nam nghệ sĩ đồng tính trót yêu một bạn nam đã nhiễm HIV nhưng không được tiếp cận dự phòng trước và sau phơi nhiễm. Khi phát hiện mình dương tính với HIV, anh giấu gia đình, không điều trị vì sợ bị kỳ thị và ảnh hưởng đến sự nghiệp. Kết quả, khi nhập viện trong tình trạng viêm phổi nặng, suy hô hấp, nhiễm trùng máu, dù được điều trị tích cực, kể cả thở máy, lọc máu, anh vẫn ra đi ở tuổi 28. “Nhìn một người trẻ ra đi ở tuổi rực rỡ nhất, chúng tôi tiếc nuối vô cùng. Giá như anh ấy được tiếp cận điều trị sớm hơn, kết cục đã khác”, bác sĩ Quyên tâm sự.

Một trường hợp nữa mà bác sĩ Quyên rất nhớ, đó là cặp vợ chồng người dân tộc Mường phát hiện dương tính với HIV. Ban đầu họ rất hoang mang, đổ lỗi cho nhau và cảm giác suy sụp hoàn toàn. Nhờ tư vấn, giải thích và điều trị, họ dần chấp nhận thực tế, gạt sang một bên câu hỏi “tại sao mình bị nhiễm” để hợp tác điều trị. Hằng ngày, họ nhắc nhau uống thuốc đều đặn và cuộc sống dần trở lại bình an.

Theo bác sĩ Quyên, điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS phải có tâm, có tình. Chữ “tâm” không phải cảm xúc, mà là điều kiện nghề nghiệp bắt buộc. Nếu không đặt người bệnh vào vị thế bình đẳng, các bác sĩ không thể đồng hành với họ suốt hàng chục năm điều trị. Cách bác sĩ Quyên lựa chọn để giúp người bệnh vượt qua sự kỳ thị không chỉ bằng lời động viên chung chung, mà bằng những hành động cụ thể. Đầu tiên là trao cho bệnh nhân sự chắc chắn về khoa học, vận động bệnh nhân tuân thủ việc điều trị ARV để biến HIV/AIDS thành bệnh mạn tính, giúp họ tự tin, vững vàng trước ánh nhìn kỳ thị. Tiếp theo, xây dựng năng lực đối phó, hướng dẫn bệnh nhân cách trả lời câu hỏi, giữ bí mật y tế, tự bảo vệ tâm lý khi đối mặt với định kiến từ gia đình, bạn bè và xã hội. Cuối cùng là kết nối cộng đồng an toàn để bệnh nhân được chăm sóc, bảo vệ tinh thần, không sụp đổ trước định kiến. “Nói cách khác, chúng tôi trao cho họ kiến thức-kỹ năng-cách hòa nhập cộng đồng, chứ không chỉ trao đơn thuốc. Nhiều bệnh nhân đồng hành với chúng tôi hàng chục năm, nhiều người đã lên ông lên bà, vẫn tìm được hạnh phúc riêng, và hầu hết đều có sức khỏe tốt nếu tuân thủ điều trị", bác sĩ Quyên nói.

 Trung bình mỗi năm, cả nước thực hiện hơn 2 triệu mẫu xét nghiệm HIV, phát hiện hơn 10.000 trường hợp dương tính. Đến tháng 12-2024, 184.214 người nhiễm HIV/AIDS đang được điều trị, trong đó có 181.849 người lớn và 2.365 trẻ em. Đáng chú ý, trên 90% người bệnh được bảo hiểm y tế chi trả thuốc ARV, giúp họ duy trì điều trị lâu dài. Ngoài ra, Việt Nam hiện có 70.000 người có hành vi nguy cơ cao từng sử dụng dịch vụ PrEP (điều trị dự phòng trước phơi nhiễm). Năm 2023, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) công nhận Việt Nam là quốc gia dẫn đầu khu vực châu Á-Thái Bình Dương về số người sử dụng PrEP-một thành tựu đáng tự hào trong khu vực. (Nguồn: Bộ Y tế)
 

(còn nữa)

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Y tế xem các tin, bài liên quan.