Trong căn nhà nhỏ nằm tại xã Yên Ninh, tiếng nhạc vọng lên réo rắt, ấm áp, ngân nga với lời ca dịu dàng, ngọt ngào của cô giáo Chu Hải Hậu. Đều đặn vào mỗi cuối tuần, cô trò lại họp nhau tại đây để rèn luyện, trau dồi những kỹ năng về đàn tính, hát Then. Vừa nhẹ nhàng chỉ dạy lời hát cho các em học sinh, chị Hậu vừa kể cho chúng tôi nghe, chị sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Cao Bằng-cái nôi của nghệ thuật hát Then.
Ngay từ nhỏ, chị đã được nghe mẹ hát và truyền dạy những kỹ thuật về hát Then, đàn tính. “Sau khi lập gia đình ở Thái Nguyên, tôi nhận nhiệm vụ làm Bí thư chi đoàn. Tại đây, tiếp xúc với nhiều em nhỏ, tôi nhận thấy các em có niềm đam mê với văn hóa-văn nghệ nhưng không có người hướng dẫn. Chính vì vậy, tôi quyết định mở lớp dạy hát Then cho những em có đam mê văn hóa truyền thống”, chị Hậu cho biết.
 |
Chị Chu Hải Hậu (thứ tư, từ trái sang, hàng ngồi) tham gia biểu diễn đàn tính cùng các thành viên trong đội. |
Qua 5 năm mở lớp dạy hát Then miễn phí, chị Hậu không thể nhớ hết số lần mình đến từng nhà học sinh để động viên, vận động các em tham gia lớp học, bởi giữa vô vàn lựa chọn vui chơi và giải trí của lớp trẻ hiện nay, việc hướng các em tìm về với vốn dân ca, nhạc cổ truyền của dân tộc là không dễ dàng. Qua những lần gặp gỡ, động viên của chị Hậu, số các em theo học ngày càng đông. Khi dạy các em hát, đánh đàn, chị luôn kiên trì và xác định rõ dạy các em từ từ, không thể ngày một ngày hai là các em có thể thành thạo được. Sau bao ngày tận tụy cùng sự tâm huyết của cô giáo Hậu, các làn điệu hát Then đã ngày một lan tỏa trong từng bản làng, ngõ xóm ở huyện Phú Lương. Không chỉ thu hút các em học sinh nhỏ tuổi mà ngay cả những cô bác trung niên cũng rất tích cực tham gia.
Nói về những trăn trở với việc phát triển các làn điệu hát Then, chị Chu Hải Hậu cho biết: “Để văn hóa được phát triển sâu rộng, mỗi cá nhân phải cùng nhau chung sức thì giá trị văn hóa mới được khôi phục và gìn giữ. Di sản thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, nếu được các cấp, ngành, chính quyền địa phương quan tâm cùng tổ chức thực hiện, tôi nghĩ sẽ mang lại hiệu quả tích cực hơn, lan rộng mô hình đến nhiều địa phương hơn”.
Sau 5 năm thành lập, có thể thấy, điều ý nghĩa mà lớp học của cô giáo Hậu đem tới cho các em học sinh không chỉ nằm ở hai chữ “miễn phí” mà quan trọng hơn là đã gieo vào lòng các em tình yêu với di sản văn hóa của dân tộc, cùng ước mong gìn giữ và tiếp nối. Những điều giản dị mà thấm sâu ấy đôi khi không dễ để tìm thấy trong dòng chảy đời sống hôm nay.
Bài và ảnh: KIM ANH