Trong niềm vinh dự ấy, tôi nhớ tới lời đồng chí chính trị viên: "Đảng lúc nào cũng ở cạnh chúng ta, giúp chúng ta cống hiến và tiến bộ". Năm 2014, trong buổi lễ nhận huy hiệu 45 năm tuổi Đảng, tâm trí tôi lại vang vọng lời đồng chí chính trị viên ngày ấy, như một dấu ấn về tư tưởng chính trị trong đời.

Tôi sinh năm 1950, quê ở xã Thanh An, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Lớn lên, tôi nghĩ nhiều về ông nội tôi-liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp, nghĩ nhiều đến bố tôi-người lính Cụ Hồ từ Chiến dịch Hà Nam Ninh (năm 1950) và anh trai Trịnh Tố Bảo đang chiến đấu đánh quân Mỹ xâm lược ở miền Nam. Chiều 17-7-1966, toàn dân quê tôi nghe ông Chủ tịch xã đọc lời kêu gọi cả nước anh dũng tiến lên đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Bác Hồ (đăng trên Báo Nhân Dân). Tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" ngấm vào tâm hồn tôi từ hôm đó. Sau Tết 1967, tôi và 4 bạn đang cùng học lớp 10 viết đơn tình nguyện ra chiến trường mà không để bố mẹ hay biết...

 

leftcenterrightdel

Ông Toàn (thứ 3 từ trái sang) trao đổi, vận động bà con xây dựng khu dân cư vững mạnh.

 

 Ngày 10-7-1967, trong những bước đầu tiên trên đường quân ngũ, tôi nung nấu ý chí sớm trở thành người đảng viên. Sáu tháng huấn luyện chiến sĩ mới, tôi đạt loại giỏi. Đơn vị báo công về gia đình, khích lệ tôi trên đường vào chiến trường B. Do luôn luôn đầu tàu gương mẫu nên khi còn đi trên đất Lào, tôi đã dự lớp học dành cho những người chuẩn bị được kết nạp Đảng, do cấp ủy đơn vị tổ chức.

Năm 1968, tại miền Đông Nam Bộ, chỉ trong 3 tháng, cấp trên đã thuyên chuyển tôi qua 3 đơn vị. Đến ngày 3-8-1968 thì về Phòng Hậu cần Đoàn 75. Đến đây, tôi có cảm giác giống như "vỡ mộng". Ở chiến trường là phải chiến đấu trực tiếp với quân thù, đằng này chẳng được "đánh đấm" gì. Hậu cần "phía sau" thì làm gì có cơ hội lập chiến công để sớm được vào Đảng! Thế rồi lời đồng chí Chính trị viên tiểu đoàn hôm giảng bài về Đảng vang vọng trong tôi: "Đảng lúc nào cũng ở cạnh chúng ta". Nghĩ lại, tôi thức tỉnh và không nhụt ý chí phấn đấu.

Hồi ấy, căn cứ hậu cần Đoàn 75 nằm bí mật trong rừng. Ngày ngày địch thực hiện "Kế hoạch Abram", cho máy bay B-52, phi pháo "rải thảm", tạo ra những vùng trắng với các chốt lớn, kết hợp thả biệt kích, thám báo tìm cách phá căn cứ của ta. Bộ đội đi công tác, đi mua lương thực, thực phẩm ở Kà Tum trên biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia thường đụng độ biệt kích, đổ máu là chuyện bình thường.

 Được cấp trên bố trí vào lực lượng xung kích của đơn vị (lúc đó chủ yếu là vận chuyển xây dựng căn cứ hậu cần), với chiếc xe đạp thồ, tôi tự mình thi đua với người trực tiếp giáp mặt quân thù ở mặt trận. Ngày ngày tôi ra trảng cắt tranh rồi thồ về để lợp cứ; lên Kà Tum đưa vật phẩm hậu cần về đơn vị. Hoạt động vận chuyển vào ban đêm là chính. Đường đèo dốc, đầy hố bom, hố đạn pháo. Có lần gặp trực thăng Mỹ đổ biệt kích chặn đường, phải tìm cách nghi binh địch, có khi vừa ra khỏi vòng vây thì pháo bầy của địch cấp tập giội xuống...

Lúc đầu tôi thồ được 50-60kg; sau nghĩ rằng, mình thồ được nhiều hơn thì sẽ bớt một phần hy sinh xương máu cho đồng đội, thế là tôi phấn đấu đưa dần năng suất lên. Cuối năm 1968, Đoàn pháo binh Biên Hòa theo yêu cầu nhiệm vụ phải di chuyển sang đất Cam-pu-chia, tôi tham gia đội vận tải, thồ vật phẩm vượt qua sự rình rập, chặn đường của quân địch. Mồng 2 Tết năm 1969, đơn vị tổ chức ra quân thực hiện lời chúc Tết của Bác Hồ: "...Vì độc lập, vì tự do/Đánh cho Mũ cút, đánh cho ngụy nhào...", tôi thồ từng hòm nguyên đựng 4 quả cối 120 mm, nặng một tạ tới đích an toàn. Về sau vững tay, có thêm kinh nghiệm xử lý chướng ngại vật trên đường, mỗi chuyến tôi thồ được 2 tạ hàng. Sống ở rừng, những cơn sốt rét bất thường hành hạ, bởi vậy, lúc khỏe tôi cố gắng tăng năng suất vận chuyển bù lúc ốm đau. Vào mùa mưa năm ấy, địch phát hiện được cơ quan hậu cứ của ta trên đất Cam-pu-chia. Chúng cho máy bay B52 đánh phá vùng biên giới gần đó suốt đêm ngày. Chúng tôi lại phải liên tục di chuyển căn cứ để bảo toàn lực lượng và phục vụ chiến đấu.

Giữa những những ngày vất vả gian nan ấy, chất đảng viên từ cuộc sống chiến trường đã hình thành trong những người lính trẻ hăng say phấn đấu cho lý tưởng cộng sản, trong đó có tôi.

Hôm chi bộ làm lễ kết nạp, tôi hồi hộp lắm. Nhờ có đồng chí Lê Khanh, Bí thư chi bộ, người giới thiệu thứ nhất và đồng chí Nguyễn Xuân Trại, Tổ trưởng tổ Đảng, người giới thiệu thứ hai hướng dẫn trước, nên mọi việc cũng lưu loát. Đến bây giờ trong tôi vẫn còn văng vẳng lời thề khi tôi dõng dạc hứa trước đảng kỳ hôm ấy. Ngày 3-9-1969, nghe tin Bác Hồ từ trần, tôi nghĩ trong đầu: Sẽ phấn đấu thật tốt để đền ơn Bác. Hằng năm sau đó tôi đều đạt đảng viên 4 tốt, được bầu là dũng sỹ quyết thắng. Đó là tiền đề để tôi có thêm nghị lực hoàn thành mọi nhiệm vụ của người đảng viên suốt 46 năm qua cũng như trên cương vị Tổ trưởng dân cư khu 11, phường Hải Tân, TP Hải Dương hôm nay.

 PHẠM XƯỞNG, ghi theo lời kể của CCB Trịnh Tố Toàn