Xuất thân trong một gia đình trung nông ở xã Trung Mầu, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội, như bao thanh niên trẻ yêu nước thời bấy giờ, Vũ Quang Trắc tham gia hoạt động cách mạng khi vừa tròn 16 tuổi. Đến năm 18 tuổi, ông viết đơn tình nguyện đi bộ đội và được điều về chiến đấu trong một đơn vị thuộc Đại đoàn 308. Đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt, ông đã tham gia hàng chục trận đánh từ kháng chiến chống Pháp sang chống Mỹ, cứu nước. Ông cũng đã được tham gia và chứng kiến giờ phút cuối cùng của Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tiếp chúng tôi, ông vui vẻ nói: “Từ khi tôi hoạt động cách mạng cho đến khi nghỉ hưu là hơn 40 năm. Tham gia cũng nhiều trận đánh, nhưng nay tuổi đã cao, trí nhớ không còn tốt như trước, nên tôi chỉ xin kể những trận đánh mà tôi nhớ còn rõ”.

Những trận đánh khó quên

"Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, từ tháng 2-1947 đến năm 1950, tôi đã xung phong tham gia nhiều trận đánh ở huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh, cánh đồng Núi Móng, tiêu diệt các cứ điểm Yên Phụ, Đồn Vàng, Á Lữ…, lập được một số chiến công...", ông Trắc mở đầu câu chuyện. Rồi người cựu chiến binh kể cho chúng tôi nghe về những năm tháng hào hùng với vẻ mặt rạng rỡ, tự hào. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ông khi ấy là Đại đội phó, trực tiếp chỉ huy lực lượng đột kích 1, xung phong đánh địch từ tiền duyên 1 lên đỉnh đồi A1. Lần ấy, đại đội ông đã đánh bại 2 lần phản kích của quân Pháp có xe tăng đi cùng, giữ vững trận địa. Tuy có thương vong, nhưng đại đội tiếp tục củng cố lại lực lượng để chuẩn bị tấn công vào Mường Thanh, sẵn sàng tham gia tổng công kích giai đoạn 3 của chiến dịch, với mục tiêu ban đầu là cứ điểm Nà Noọng và phát triển vào trung tâm sở chỉ huy của địch ở Mường Thanh. Sau Chiến dịch Điện Biên Phủ, do lập được một số thành tích, ông được trên giao làm Đại đội trưởng Đại đội 267, đồng thời được tặng Huân chương Chiến công hạng nhất.

Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Vũ Quang Trắc (thứ hai, từ phải sang) khi về thăm lại Sư đoàn 3. Ảnh do nhân vật cung cấp 

Bộ đội ta đánh chiếm khu vô tuyến viễn thông của địch ở Vũng Tàu năm 1975. Ảnh tư liệu 

 

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đầu năm 1964, với cương vị Tiểu đoàn trưởng, ông cùng đồng đội tiếp tục hành quân vào miền Nam, tham gia chiến đấu. Cuộc hành quân suốt 3 tháng ròng vượt dãy Trường Sơn là thử thách đầu tiên với đơn vị. Với tinh thần tất cả vì miền Nam ruột thịt, họ đã thực hiện nghiêm ngặt khẩu hiệu “Đi không dấu, nấu không khói”. Nhiều ngày phải ăn “gạo bọc thép” (gạo không giã của đồng bào dân tộc) và cháo rau rừng, dù gian khổ, hiểm nguy là thế, nhưng với tinh thần sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp thống nhất đất nước, 100% cán bộ, chiến sĩ của đơn vị đã hành quân tới đích an toàn. Đơn vị ông được bổ sung cho Quân khu 5.

Tháng 12-1964, Quân khu 5 mở đợt hoạt động Đông-Xuân. Đây là đợt hoạt động đầu tiên của chủ lực Quân khu 5, nhằm tiêu diệt một lực lượng lớn sinh lực địch, giải phóng một khu vực hoàn chỉnh, đông dân và trù phú ở vùng giáp ranh tỉnh Bình Định, tạo điều kiện tiến xuống đồng bằng và Đường số 1. Với phương châm tác chiến "đánh điểm, diệt viện", Trung đoàn 2 và Tiểu đoàn 409 Đặc công có nhiệm vụ giải phóng quận An Lão. Đúng như phương án chiến đấu của quân khu, sau khi ta tiêu diệt 11 cứ điểm tại quận lỵ An Lão, địch thành lập chiến đoàn 40 gồm 2 tiểu đoàn bộ binh và 1 chi đoàn xe bọc thép, hành quân theo tỉnh lộ 5, từ quận lỵ Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn lên giải tỏa để chiếm lại An Lão. Trung đoàn 2 phục kích tại Truông Hội, phía tây Bồng Sơn khoảng 10km. Được chuẩn bị tốt về tư tưởng, lại đứng trên địa thế có lợi, bộ đội đã để cho địch lọt sâu vào trận địa mới nổ súng. Bị đánh bất ngờ từ sườn núi xuống, địch dạt ra bờ sông An Lão. Bộ binh, xe bọc thép không ứng cứu được cho nhau. Tiểu đoàn 3 làm nhiệm vụ chặn đầu đã lần lượt tiêu diệt từng cụm quân địch, bắn cháy, phá hủy 10 xe bọc thép, số sống sót bỏ chạy về Bồng Sơn. Cuộc hành quân tái chiếm quận lỵ An Lão của quân ngụy thất bại. Quận An Lão được hoàn toàn giải phóng. Trong trận này, Tiểu đoàn 3 do ông chỉ huy đã lần đầu tiên tiêu diệt được xe thiết giáp M113, một con “át chủ bài ” của quân ngụy thời đó trên chiến trường Bình Định.

Tiếp theo là đợt hoạt động Xuân 1965. Vẫn với phương châm “đánh điểm, diệt viện”, ngày 8-2-1965, đặc công Quân khu 5 tiêu diệt cứ điểm Dương Liễu, xã Phú Lợi, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, diệt và bắt sống 195 tên. Trung đoàn 2 lại bố trí trận địa phục kích ở đèo Nhông. Đúng như dự đoán của ta, quân địch tổ chức hành quân từ quận lỵ Phù Mỹ theo Quốc lộ 1 ra chiếm lại Bình Dương. Sau một ngày chiến đấu, Trung đoàn 2 đã tiêu diệt và bắt sống hàng trăm tên địch. "Trong trận này, tiểu đoàn tôi không chỉ bắn cháy mà còn... bắt sống được xe bọc thép. Đó là trường hợp Trung đội trưởng Bùi Xuân Bính đã dũng cảm bám sát xe địch, lợi dụng góc chết của hỏa lực, dùng thủ pháo, lựu đạn ném vào thùng xe M113. Địch hoảng sợ bỏ xe tháo chạy, đồng chí Bính nhảy lên xe M113 dùng súng máy trên xe, quay nòng bắn vào đội hình địch, tạo điều kiện cho đồng đội vận động tiến công", ông Trắc hào hứng nói về chiến công của đồng đội. Tiểu đoàn 3 của ông lần đó đã nêu gương bắt sống xe bọc thép. Đồng chí Bùi Xuân Bính đã được Quân khu 5 tuyên dương là ngọn cờ đầu. Tiểu đoàn 3 được tặng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất. Ông cũng được tặng Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì.

Ký ức tháng Tư

Nhấp ngụm trà, ông tiếp tục kể cho chúng tôi nghe về ký ức tháng 4-1975, khi ông trực tiếp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Lúc này, ông được đề bạt làm Sư đoàn phó Sư đoàn 3 (Sao Vàng) và được phân công trực tiếp đi với Trung đoàn 2 trên hướng chủ yếu đánh vào Vũng Tàu.

Trận đánh ở Vũng Tàu, do địch đánh sập cầu Cỏ May, nước sông lớn, bộ đội Trung đoàn 2 bị thương vong nhiều khi vượt sông. Bộ tư lệnh Sư đoàn đã họp và thống nhất phương án chuyển hướng tiến công chủ yếu qua cửa biển Phước Tỉnh, do Trung đoàn 12 đảm nhiệm. Ông Trắc đồng tình với cách xử trí đó và hiệp đồng khi Trung đoàn 12 vượt qua cửa sông ở Phước Tỉnh, phải cho một mũi đánh vào lưng địch ở nam cầu Cỏ May. Nhờ cách đánh đó, sáng 30-4-1975, địch ở nam cầu Cỏ May đã phải rút chạy. Ông cùng Ban chỉ huy Trung đoàn 2 vượt sông Cỏ May chỉ huy đơn vị đánh vào trung tâm thành phố Vũng Tàu, lần lượt chiếm quân cảng Rạch Dừa, trung tâm thông tin, trường thiếu sinh quân và chiếm nguyên vẹn đài vô tuyến viễn thông, đài viễn thông lớn nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ. Phát hiện địch còn nhiều tàu chiến lởn vởn ngoài khơi, ông nhận định địch chắc không đủ dầu để chạy ra nước ngoài, nên đã bàn với chỉ huy Trung đoàn 2 sử dụng vô tuyến điện để liên lạc với tàu địch, kêu gọi chúng vào hàng. Kết quả đã gọi hàng được hàng chục tàu chiến địch...

Người bí thư hết lòng vì dân

Trở về quê nhà nghỉ hưu sau hơn 40 năm tham gia cách mạng và gần 40 năm phục vụ trong quân đội, ông lại được tín nhiệm bầu giữ chức Bí thư chi bộ thôn, rồi Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Trung Mầu khóa đầu tiên và Bí thư Đảng ủy xã Trung Mầu nhiệm kỳ 1991-1993.

Ở các cương vị công tác, ông Trắc luôn đề cao ý thức trách nhiệm trước công việc, không quản ngại khó khăn, nỗ lực hết mình tham gia cùng lãnh đạo HĐND, UBND xã đưa nhiều biện pháp phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Trong thời kỳ này, địa phương đã tích cực chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng, chủ động thâm canh, canh tác các loại cây có hiệu quả kinh tế cao; đẩy mạnh nghề chăn nuôi lợn nái, lợn thịt; phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm, nuôi bò sữa; sản xuất nông nghiệp... Nhờ đó, xã Trung Mầu thoát khỏi những yếu kém về kinh tế, thu nhập của người dân khá ổn định. Hạ tầng cơ sở như hệ thống điện, đường liên thôn, liên xã, trường học, trạm y tế dần được hoàn thiện, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, an ninh trật tự trong xã được giữ vững. Đảng bộ xã Trung Mầu luôn đạt trong sạch vững mạnh, được Đảng ủy huyện Gia Lâm và Đảng bộ TP Hà Nội biểu dương. Đồng chí Tạ Đình Tuyến, Chủ tịch UBND xã Trung Mầu nhận xét: "Ông Vũ Quang Trắc không chỉ anh hùng trong chiến đấu mà còn là cán bộ, đảng viên ưu tú hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Ông đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Tuổi cao, ý chí càng cao, ông luôn là tấm gương sáng cho cấp ủy, chính quyền, nhân dân địa phương chúng tôi học tập, noi theo”.

Trò chuyện với Anh hùng LLVT nhân dân Vũ Quang Trắc, chúng tôi thấy, ông cũng như bao đồng đội “một thời hoa lửa” của ông, khi hoạt động cách mạng thì sôi nổi, khi về nghỉ thì vẫn giữ vững phẩm chất của Bộ đội Cụ Hồ, kiên trung với Đảng, hết lòng vì dân, là tấm gương sáng để thế hệ trẻ chúng tôi soi vào mà tự sửa mình...

BÙI THẾ ANH