60 năm qua, kể từ ngày 27-7-1947-Ngày được Bác Hồ chọn làm Ngày Thương binh toàn quốc hằng năm-chính sách ưu đãi đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công đã không ngừng phát triển, đổi mới và hoàn thiện, trở thành một hệ thống chính sách ưu đãi lớn của Đảng, Nhà nước ta. Các chính sách này đã đi vào cuộc sống, tạo nên sự đồng thuận giữa “ý Đảng, lòng Dân” và trở thành động lực của một phong trào cách mạng rộng lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của Đảng và nhân dân ta.
Khởi điểm từ sắc lệnh của Bác
Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Hưởng ứng lời kêu gọi cứu nước của Bác Hồ, nhân dân cả nước nhất tề đứng dậy kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Số người bị thương và hy sinh trong chiến đấu tăng lên. Thương binh, liệt sĩ trở thành một vấn đề lớn.
Trước yêu cầu bức xúc đó, cùng với việc tiếp tục kêu gọi giúp đỡ thương binh, gia đình tử sĩ, ngày 16-2-1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20/SL “Quy định chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất tử sĩ”. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sĩ đối với công cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc. Sắc lệnh này là “khởi điểm” của chính sách ưu đãi người có công, bắt đầu với hai chính sách thương binh và liệt sĩ, cho ba đối tượng quân nhân, thanh niên xung phong và dân quân du kích. Thời kỳ này (1947) chế độ đối với thương binh, gia đình tử sĩ còn mang tính trợ cấp khó khăn. Sang giai đoạn 1954-1964, đối tượng bệnh binh được bổ sung thêm. Ngoài chế độ trợ cấp, tùy theo điều kiện thương binh về gia đình hay ở lại các trại nuôi dưỡng còn được bổ sung thêm chế độ trợ cấp sản xuất, miễn giảm thuế Nhà nước, chế độ ưu tiên tuyển dụng, đi học...
Năm 1964, Chính phủ ban hành Điều lệ ưu đãi đối với quân nhân, dân quân, tự vệ ốm đau, bị thương, bị chết. Theo đó, chế độ thương tật mới gồm 8 hạng và chế độ tiền tuất mới gồm tuất hằng tháng và tuất một lần đối với gia đình liệt sĩ ra đời. Ngoài chính sách thương binh, liệt sĩ nói trên, trong thời kỳ này, Đảng, Chính phủ đã có những quy định đối với một số đối tượng có công khác như: Quy định tiêu chuẩn và trợ cấp ưu đãi đối với cán bộ hoạt động cách mạng trước ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước và chế độ đãi ngộ quân nhân; khen thưởng “
Kỷ niệm chương”, “Tổ quốc ghi công” và bằng “
Có công với nước” đối với người có công giúp đỡ cách mạng; Khen thưởng huân, huy chương Kháng chiến đối với nhân dân có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Pháp; khen thưởng tổng kết thời kỳ kháng chiến chống Pháp: huân, huy chương Chiến thắng đối với quân nhân; huân, huy chương Kháng chiến đối với cán bộ dân chính Đảng tham gia cuộc kháng chiến. Từ năm 1966, chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ mở rộng ở miền Bắc và cách mạng miền Nam cần sự chi viện của miền Bắc, chế độ ưu đãi đã mở rộng thêm đối với lực lượng thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước, dân công hỏa tuyến phục vụ các chiến trường, lực lượng vận tải bốc xếp, sơ tán hàng hóa, cán bộ chủ chốt xã, cán bộ y tế làm nhiệm vụ cấp cứu phòng không. Những đối tượng trên khi làm nhiệm vụ mà bị thương hoặc hy sinh thì được xác nhận là người được hưởng chính sách như thương binh và liệt sĩ. Đi đôi với việc ban hành và sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, công tác thương binh, liệt sĩ giai đoạn này đã phát động toàn dân chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ vận động được tất cả các ngành, các cấp trong phạm vi chức năng ban hành các chế độ ưu đãi thương binh, gia đình liệt sĩ.
 |
Lãnh đạo Bộ LĐ-TB-XH thăm, tặng quà Bà mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Phúc, 92 tuổi, tại phường Ninh Phụng (TP Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình) có 3 con và 1 cháu nội là liệt sĩ. Ảnh: MẠNH DŨNG |
Giai đoạn từ 1976 đến 1985: miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, chính sách đối với người có công tiếp tục giải quyết những tồn đọng và bổ sung thêm nhiều quy định về tiêu chuẩn đối với thương binh, liệt sĩ cho phù hợp với tình hình mới như bổ sung thêm đối tượng người có công giúp đỡ cách mạng; thống nhất hai chế độ thương binh (6 hạng đối với thương binh thời kỳ chống Pháp và 8 hạng đối với thương binh thời kỳ chống Mỹ) thành một chế độ thương binh 4 hạng. Đến năm 1995, sau gần 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, với điều kiện kinh tế cho phép, Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng và Pháp lệnh phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Đối tượng được mở rộng thêm đến người hoạt động cách mạng từ 1-1-1945 đến Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, người hoạt động cách mạng bị địch bắt tù đày, người có công với cách mạng, người hoạt động kháng chiến, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc được thưởng huân, huy chương Kháng chiến.
Từ năm 2005, do điều kiện tăng trưởng kinh tế và tài chính quốc gia đã cho phép việc nghiên cứu thiết kế, sửa đổi một cách cơ bản chính sách ưu đãi người có công. Chính vì vậy, năm 2005 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh ưu đãi người có công (sửa đổi), trong đó quy định một cách hệ thống cả về đối tượng, điều kiện, tiêu chuẩn và chế độ ưu đãi cho phù hợp với từng thời kỳ cách mạng. Định hướng chung của Pháp lệnh (sửa đổi) là: Mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp (13 diện đối tượng) và nâng mức trợ cấp nhằm tiếp tục cải thiện mức sống của thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người có công với cách mạng. Mức trợ cấp, phụ cấp hằng tháng đối với người có công và thân nhân của họ được đảm bảo tương xứng với mức tiêu dùng bình quân của toàn xã hội. Công tác quản lý và thực hiện cũng được kiện toàn cơ bản, như xác định cụ thể trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước các cấp, nâng cao vai trò của MTTQ Việt Nam, các đoàn thể, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chính sách đối với người có công.
Kết quả thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng, đến nay cả nước đã có hơn 8 triệu người được hưởng chế độ ưu đãi một lần và hằng tháng, trong đó khoảng 1,5 triệu người hưởng trợ cấp hằng tháng; hàng chục nghìn con thương binh, con liệt sĩ được hưởng chế độ ưu đãi về giáo dục đào tạo, chăm sóc y tế, 14.500 cán bộ lão thành cách mạng được hỗ trợ cải thiện nhà ở… Cùng với chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước, sự quan tâm hỗ trợ của cộng đồng và sự nỗ lực vươn lên của đối tượng, đến nay 90% người có công với cách mạng đã có mức sống bằng hoặc cao hơn so với mặt bằng mức sống nơi cư trú. Gần đây nhất, ngày 21-6-2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục sửa đổi Điều 9 và Điều 10 của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Theo đó, đối tượng là người hoạt động cách mạng trước 1-1-1945, người hoạt động cách mạng từ 1-1-1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19-8-1945 được hưởng một số chế độ ưu đãi về vật chất và tinh thần khi còn sống và được hưởng một khoản trợ cấp, mai táng phí khi chết. Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con của hai diện đối tượng trên cũng được hưởng những chế độ ưu đãi theo quy định của Chính phủ.
Cải cách cơ chế, thủ tục
Cùng với việc mở rộng về diện đối tượng, bổ sung thêm về chính sách, việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công còn không ngừng được cải cách về cơ chế nhằm huy động sự đóng góp của cộng đồng, động viên sự vươn lên của đối tượng, đảm bảo sự ổn định lâu dài đời sống của người có công.
Đặc biệt là thủ tục hành chính trong xác nhận cũng như hưởng chính sách được đơn giản hóa: Nếu như trước đây chế độ ưu đãi đi theo tiền lương tối thiểu, thì nay, theo Pháp lệnh ưu đãi người có công sửa đổi năm 2005, mức trợ cấp, phụ cấp hằng tháng đối với người có công với cách mạng và thân nhân của họ được bảo đảm điều chỉnh tương ứng với mức tiêu dùng bình quân của toàn xã hội; bổ sung chế độ mai táng phí đối với diện đối tượng có công hưởng trợ cấp, phụ cấp hằng tháng; bổ sung chế độ đối với người có công sau khi chết thân nhân của họ tiếp tục hưởng một khoản trợ cấp (bằng 3 tháng trợ cấp, phụ cấp trước khi chết); bổ sung chế độ đối với bố mẹ, vợ hoặc chồng, người có công nuôi liệt sĩ được hưởng trợ cấp tiền tuất hằng tháng không phụ thuộc tuổi đời (trước đây phải hết tuổi lao động hoặc mất sức lao động từ 61% trở lên mới được hưởng); thân nhân hai liệt sĩ được hưởng trợ cấp nuôi dưỡng (trước đây chỉ được hưởng tiền tuất); bổ sung chế độ bảo hiểm y tế và mai táng phí đối với người hoạt động kháng chiến và người có công giúp đỡ cách mạng hưởng trợ cấp một lần.
Các chế độ ưu đãi về đất ở, đất sản xuất, nhà ở, thuế, tín dụng, y tế, giáo dục, đào tạo… trước đây đã nêu ra nhưng chưa cụ thể nên việc hướng dẫn và tổ chức thực hiện chưa thống nhất. Nay, Pháp lệnh ưu đãi người có công sửa đổi (2005) đã quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, trách nhiệm của từng Bộ, ngành, UBND các cấp trong việc thực hiện các chế độ ưu đãi đối với người có công. Đặc biệt, cơ chế xử lý vi phạm trong lĩnh vực người có công cũng được quy định rất rõ, cụ thể tại các Điều 32; 33 và 34 Nghị định 54/2006/NĐ-CP. Theo đó, người có công với cách mạng phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc phạm tội khác, bị phạt tù chung thân thì bị đình chỉ vĩnh viễn chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng và thân nhân của họ.
Để chính sách đi vào cuộc sống
Để việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công được kịp thời, đúng đối tượng, hạn chế tiêu cực trong tổ chức thực hiện, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã tiến hành đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong một số nội dung công tác sau:
Phân cấp cho địa phương 5 lĩnh vực: xác nhận người có công, giới thiệu giám định bổ sung thương tật, cấp lại bằng "Tổ quốc ghi công", ký trích lục gửi Bộ theo dõi và cấp kinh phí tuất đối với thân nhân người hoạt động cách mạng trước năm 1945 và thân nhân thương binh từ trần; Xây dựng cơ chế chịu trách nhiệm nhằm nâng cao vai trò của các đơn vị, địa phương trong việc xác nhận và thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng; Cải cách thủ tục hành chính trong thủ tục hồ sơ và quy trình xem xét, xác nhận người có công theo hướng phân cấp, quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm nhằm đảm bảo việc thực hiện chính xác chế độ ưu đãi, xử lý nghiêm những vi phạm, khắc phục những sai sót đang tồn tại; Từng bước tiền tệ hóa trong lĩnh vực cung cấp trang bị trợ giúp, chỉnh hình đối với người có công; Thể chế hóa các công cụ quản lý, áp dụng các phương tiện công nghệ nhằm bảo đảm nắm vững thông tin về người có công để thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước hiệu quả hơn, kịp thời phát hiện và giải quyết những vướng mắc phát sinh bằng những giải pháp phù hợp…
NGUYỄN THỊ HẰNG
Bộ trưởng Bộ LĐ-TB-XH