Báo cáo tham luận của đại biểu tỉnh Cao Bằng tại Hội nghị Tổng kết thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng nêu rõ: "Hiện nay tỉnh Cao Bằng có tới 1.537 hộ người dân tộc Mông thiếu đất sản xuất, 1.355 hộ thiếu đất ở…". Tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở không chỉ xảy ra đối với người dân tộc Mông ở Cao Bằng mà cả các dân tộc thiểu số khác thuộc nhiều tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước và các địa phương đang đẩy mạnh việc điều tra, qui hoạch đất đai và đầu tư vào các công trình thủy lợi.

Từ thực tế "nóng"...

Đồng chí Lương Văn Bường, Phó bí thư huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, cho biết:

- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự chậm phát triển kinh tế-xã hội vùng cao, trong đó có nguyên nhân công tác định canh, định cư cho đồng bào các dân tộc chưa tốt. Phương thức sản xuất lạc hậu, phổ biến vẫn là phát, đốt rừng làm nương rẫy. Sau vài năm trồng tỉa cây lương thực, đất đai bị bạc màu, năng suất thấp, người dân lại kéo đi nơi khác, tiếp tục phá rừng, đốt nương làm rẫy mới. Tình trạng ấy diễn ra từ bao đời nay dẫn đến nguồn nước bị cạn kiệt, rừng đầu nguồn bị tàn phá không đủ sức ngăn những cơn mưa lớn, những trận lũ quét, làm cho đất đai bị bạc màu là điều khó tránh khỏi.

Theo khảo sát của cơ quan chức năng, có khoảng 80% đồng bào các dân tộc vùng cao các tỉnh phía Bắc và miền Trung sống ở nơi có độ cao và độ dốc lớn, diện tích đất nông nghiệp có thể canh tác được chỉ chiếm từ 7% đến 10% diện tích tự nhiên. Cách đây 2 năm, khi đến công tác ở xã Si Pha Phìn (huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên) tôi được chứng kiến một dải rừng do người dân đốt kéo dài từ Na Khô Sa đến Na Pheo. Cũng về việc này, đồng chí Lầu A Páo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái, bày tỏ:

- Đất nông nghiệp của huyện có 7%, mà diện tích này đa số nằm trên các triền đồi dốc, thung lũng, không có rừng che chắn, nên về mùa mưa đất rất dễ bị bạc màu. Đất sản xuất hằng năm cứ bị thu hẹp lại. Đất đai tự nhiên thì rộng mênh mông, nhưng đất ở và đất sản xuất của đồng bào thì lại rất ít.

Từ ngày thực hiện chủ trương, chính sách giao đất, giao rừng đến tay bà con nông dân, tình trạng rừng bị xâm hại, chặt phá có giảm. Hàng chục vạn héc-ta đồi trọc được phủ xanh. Tuy nhiên tình trạng xâm hại rừng đầu nguồn, rừng nguyên sinh, kể cả rừng phòng hộ vẫn diễn ra khá phổ biến. Việc đầu tư cho bảo vệ, tu bổ rừng còn nhiều bất cập, dẫn đến việc người dân thờ ơ, không nhiệt tình trong việc tu bổ, chăm sóc rừng, hoặc làm theo kiểu "được chăng hay chớ". Ông Giàng Sái Sinh, một cán bộ lão thành ở huyện Mù Căng Chải (huyện ở độ cao loại nhất tỉnh Yên Bái), nói: "Công chăm sóc và bảo vệ 1ha rừng Nhà nước trả có 50 nghìn đồng, nhưng số tiền đến tay người dân chỉ còn 30 nghìn đồng”. Ông đề nghị: Cần phải tăng tiền đầu tư cho người chăm sóc bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng nguyên sinh, rừng phòng hộ và rừng trồng vì đây chính là tấm áo giáp che chắn cho đất nông nghiệp ở độ dốc lớn đỡ bị bạc màu bởi mưa, lũ”.

Cần các giải pháp hữu hiệu

Trước thực trạng trên, những năm qua, Đảng và Nhà nước đã tiến hành song song việc đầu tư nhiều mặt cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa bằng các chương trình cụ thể như 135, 186, 120, 661, 134… nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giúp đồng bào xóa đói giảm nghèo. Chính quyền các tỉnh vùng cao đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan đẩy nhanh tốc độ điều tra tài nguyên đất, nước, rừng, khoáng sản… Trong đó tập trung vào việc qui hoạch, phân bố lại đất đai canh tác, đất ở thuận tiện cho việc sinh sống, sản xuất của bà con. Các cụm dân cư tập trung được hình thành, với điều kiện có đủ đất, gần nguồn nước, thuận tiện cho việc mở đường giao thông, đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng. Tại Hội nghị Tổng kết Chỉ thị 45-CT/TW, đồng chí Trương Vĩnh Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng Chính phủ chỉ rõ: "Nông dân, nông nghiệp, nông thôn là ba vấn đề lớn mà Đảng và Chính phủ rất quan tâm tìm cách tháo gỡ. Công tác định canh định cư chính là tạo điều kiện ổn định đất ở và đất sản xuất thuận tiện giúp đồng bào vùng cao xóa đói, giảm nghèo”.

Tuy nhiên, công tác định canh, định cư còn nhiều bất cập, như đầu tư thiếu đồng bộ, số hộ cần định canh định cư còn nhiều. Khi sắp xếp, bố trí dân cư chưa thỏa đáng các yếu tố, đặc điểm về văn hóa, các điều kiện về đất sản xuất, nước sinh hoạt còn thiếu nên đồng bào chưa thật sự yên tâm với nơi ở mới. Theo tài liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì những năm qua, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chú trọng chỉ đạo thực hiện công tác qui hoạch và đến nay đã cơ bản hoàn thành qui hoạch phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ở các vùng sinh thái trong thời kỳ 2006-2010; hoàn chỉnh phương án phát triển sản xuất ở các khu tái định cư của đồng bào phải di chuyển phục vụ xây dựng các công trình thủy điện lớn như Sơn La, Tuyên Quang. Bộ cũng đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi, nâng cao diện tích được tưới tiêu chủ động, phục vụ cho việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất ở vùng cao, cải tạo môi trường, cải tạo đất. Chỉ tính riêng các tỉnh Tây Bắc đã xây dựng 15 nghìn công trình thủy lợi, với 4.200km kênh mương tưới nước cho 84.500ha lúa chiêm, 139.160ha lúa mùa, hàng nghìn héc-ta rau màu và cấp nước sinh hoạt cho nhân dân vùng cao.

Đồng chí Yđam Enuôn, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắc Lắc cho biết:

- Bằng nguồn vốn của Trung ương, tỉnh đã đầu tư hơn 8 tỷ đồng vào ba dự án định canh định cư cho đồng bào Mông vào cư trú là Cây Tắc, Cư Yang Hanh, Ea Lang. Mỗi hộ được cấp 1ha đất sản xuất và 400m2 đất ở, ổn định đời sống cho hàng nghìn hộ với cơ sở hạ tầng khá thuận lợi, như điện, đường, trường, trạm, nguồn nước tưới tiêu và nguồn nước sinh hoạt. Nhưng ở Đắc Lắc vẫn còn tới 1.144 hộ người Mông cần phải bố trí vào các vùng qui hoạch, nhưng quĩ đất để qui hoạch rất khó khăn, phần lớn phải lấy từ đất rừng nghèo mà việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất lại không đơn giản về mặt thủ tục.

Để giải quyết cơ bản vấn đề đói nghèo ở miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, Nhà nước và các địa phương phải đặc biệt quan tâm làm tốt công tác qui hoạch, bố trí sắp xếp khu dân cư, thực hiện định canh định cư vững chắc. Lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư có trọng điểm, xây dựng các mô hình về định canh, định cư như các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái đã làm khá tốt. Bên cạnh đó, các địa phương và các bộ ngành liên quan cần chú trọng hơn việc áp dụng khoa học kỹ thuật, đầu tư nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng tốt, sản xuất sản phẩm nông nghiệp có tính cạnh tranh, mang tính hàng hóa cao; đồng thời đẩy mạnh việc khai hoang các diện tích ở vùng thung lũng, phát huy sự sáng tạo của đồng bào dân tộc thiểu số trong việc phát triển diện tích ruộng bậc thang vừa bảo đảm tăng diện tích lúa nước, vừa chống xói mòn… Đó là những giải pháp khả thi, đã thành công ở nhiều vùng, cần được nhân rộng ở địa bàn các tỉnh vùng cao.

Bài và ảnh: VŨ ĐẠT