Tốc độ phát triển của nền kinh tế đang là sức ép lớn đối với việc cung ứng năng lượng, đặc biệt là năng lượng điện. Dự án Nhà máy thủy điện Lai Châu-công trình điện lớn án ngữ ở bậc thang cao nhất trong hệ thống ba công trình thủy điện trên sông Đà đang được hi vọng sẽ góp phần giải tỏa gánh nặng thiếu điện. Tuy nhiên, các vấn đề an toàn, di dân, môi trường đang là những băn khoăn của dư luận cần có phương án tháo gỡ thấu đáo. 

Công trình thủy điện lớn cuối cùng trên sông Đà

Tiềm năng thủy điện của sông Đà chiếm gần 50% trữ năng kinh tế kĩ thuật thủy điện của cả nước. Nhà máy thủy điện Lai Châu nằm ở bậc thang trên cùng trong chuỗi 3 thủy điện trên sông Đà là Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu. Thủy điện Lai Châu dự kiến được xây dựng tại xã Nậm Hàng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Đây được coi là công trình thủy điện lớn cuối cùng của đất nước, có vai trò quan trọng trong việc phát điện, tham gia cấp nước cho Đồng bằng sông Hồng về mùa kiệt và còn góp phần phát triển kinh tế, xã hội hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên (đặc biệt là huyện miền núi biên giới Mường Tè), bảo đảm quốc phòng- an ninh khu vực Tây Bắc.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khảo sát địa điểm xây dựng Nhà máy thủy điện Lai Châu. Ảnh: TTXVN

Dự án Nhà máy thủy điện Lai Châu đã được nghiên cứu từ những năm 1960. Năm 2002, Quy hoạch bậc thang thủy điện trên sông Đà trong đó có thủy điện Lai Châu, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Quốc hội thông qua tại kì họp thứ hai Quốc hội khóa XI.

Theo Tờ trình của Chính phủ trình Quốc hội kì này, dự kiến Thủy điện Lai Châu sẽ khởi công vào cuối năm 2010, phát điện tổ máy đầu tiên năm 2016 và hoàn thành vào năm 2017. Tuy nhiên, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đề nghị tính toán để rút ngắn thời gian thi công nhà máy từ 1 đến 2 năm.  Vì Nhà máy Thủy điện Lai Châu có quy mô công suất phát điện bằng ½ Nhà máy thủy điện Sơn La, khối lượng bê tông cũng chỉ bằng 57,63% so với Công trình thủy điện Sơn La. Do đó, nếu thời gian thực hiện Dự án thủy điện Sơn La là 8 năm (2005 – 2012) thì thời gian xây dựng Thủy điện Lai Châu có thể rút ngắn hơn nữa.

Có an toàn trước sự cố bất thường?

Tính an toàn luôn một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của mỗi công trình thủy điện. Đối với Nhà máy thủy điện Lai Châu do nằm ở vùng núi Tây Bắc, có thể xảy ra những trận động đất mạnh tới 7,8 độ rích-te và do phía thượng nguồn Trung Quốc đã có tới 11 công trình thủy điện có thể gây ra yếu tố cộng hưởng nguy hiểm khi xả lũ, động đất, vỡ đập nên vấn đề an toàn lại càng được đặt ra cấp thiết. Theo các nghiên cứu khoa học, càng nhiều công trình thủy điện xác suất xảy ra động đất càng cao hơn.

Giải trình trước Quốc hội, ông Phạm Lê Thanh, Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết công trình đã được Viện Vật lý Địa cầu thẩm định độ an toàn đối với động đất. Các trận động đất gây thiệt hại nặng ở Tứ Xuyên (Trung Quốc) gây lo ngại lớn vì sự ảnh hưởng của nó đến Lai Châu. Tuy nhiên, Viện Vật lý Địa cầu khẳng định nếu có động đất tại Tứ Xuyên thì mức độ ảnh hưởng đến Thủy điện Lai Châu cũng là rất ít do khoảng cách xa hơn 1.000km và nằm ở đứt gẫy khác. Khu vực có khả năng xảy ra động đất tại Lai Châu cũng cách công trình thủy điện khoảng 12km và Thủy điện Lai Châu có thể chịu được động đất cấp 9, vì thế Viện Vật lý Địa cầu khẳng định độ bền của Nhà máy thủy điện Lai Châu.

Ông Phạm Lê Thanh khẳng định khả năng xả lũ cực đại của thủy điện Lai Châu là 25.400m3/giây. Trong khi nếu xảy ra sự cố vỡ các đập phía thượng nguồn Trung Quốc thì lưu lượng nước về cũng chỉ là 13.000m3/giây. Hồ thủy điện cuối cùng ở phía Trung Quốc nằm cách biên giới Việt Nam 13km có dung tích 78 triệu m3. Nếu đập thủy điện này có vỡ thì mức nước hồ chứa của Thủy điện Lai Châu sẽ là 296,9m, tức là chỉ cao hơn so với mực nước bình thường khoảng 2m, nằm trong khả năng chứa của hồ. Với những đợt lũ có lưu lượng nước là 22.259m3/giây và lũ cực đại (PMF) là 27.803m3/giây thì theo Tập đoàn Điện lực  Việt Nam (EVN) tần suất xuất hiện của chúng chỉ là 0,01% tức là 1 lần/10.000 năm. Tuy nhiên, ý kiến của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cũng như ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng với sự biến đổi khí hậu khó lường như hiện nay thì phải tính toán và chuẩn bị tất cả các phương án ứng phó.

Di dân: Chỗ ở mới phải thực sự tốt hơn chỗ ở cũ

Theo số liệu nêu trong Tờ trình của Chính phủ báo cáo Quốc hội, số hộ và số dân phải di chuyển đến nơi ở mới là 1.331 hộ/5.867 khẩu thuộc 8 xã và 1 thị trấn. Theo Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo đầu tư Dự án thì công tác di dân tái định cư chỉ liên quan đến huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu và các điểm tái định cư chủ yếu phân bố ở huyện Mường Tè. Tuy nhiên, kết quả khảo sát của tỉnh Điện Biên cho thấy, với mực nước dâng trên 300m thì sẽ ngập một phần diện tích của huyện Mường Chà và huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Điều này cần được chủ đầu tư quan tâm và lập phương án di dời dân bổ sung trong thời gian tới.

Chính sách di dân tái định cư được thực hiện theo nguyên tắc người dân phải có điều kiện sinh sống và sản xuất tốt hơn nơi ở cũ. Cơ chế tái định cư của Dự án Thủy điện Lai Châu được áp dụng như tại Thủy điện Sơn La. Tuy nhiên, theo báo cáo giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về di dân tái định cư Dự án Thủy điện Sơn La đầu năm 2009, bên cạnh những thành công đạt được, vẫn bộc lộ thiếu sót, tồn tại làm ảnh hưởng tới chất lượng đời sống của người dân phải di dời cũng như người dân nơi tiếp nhận.

Tại diễn đàn Quốc hội, các đại biểu đề nghị làm rõ khái niệm thế nào là “nơi ở mới có điều kiện sinh sống và sản xuất tốt hơn nơi ở cũ”.  Đại biểu Ngô Minh Hồng (Thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng, có tình trạng các đơn vị làm dự án thủy điện mang nếp nghĩ của thành phố áp dụng vào miền núi nên rất quan liêu khi thực hiện di dân. Bà Ngô Minh Hồng cho rằng không phải cứ xây nhà thành dãy gần đường quốc lộ là người dân có thể sống được mà còn phải xem phong tục, tập quán, nguồn nước, đất đai sản xuất, chuyển đổi ngành nghề cho dân thì việc di dân mới bền vững. Một số đại biểu cho rằng những mảnh đất tốt đã được canh tác nhiều đời thì sẽ nằm dưới lòng hồ Thủy điện Lai Châu, còn lại là đất hoang, đất sỏi đá, thiếu nước trồng trọt, vì thế việc tìm được nơi ở mới tốt cho dân không phải là dễ dàng.  Các ý kiến cho rằng cần phải tham khảo nguyện vọng của dân về nơi ở mới trước khi thực hiện di dời, những trường hợp không thể cấp đất trồng trọt thì phải chuyển đổi ngành nghề, thậm chí cho dân góp cổ phần của nhà máy thủy điện. Đại biểu Giàng A Chu (Yên Bái) cho rằng cần nâng thời gian hỗ trợ lương thực cho người dân tái định cư từ 3 năm lên tối thiểu là 5 năm, bởi bà con cần một khoảng thời gian dài để cải tạo đất đai trồng trọt.

Để đáp ứng nhu cầu tăng tốc phát triển kinh tế thì việc ra đời của Nhà máy thủy điện Lai Châu là cần thiết, phần lớn đại biểu Quốc hội và dư luận xã hội đồng tình với dự án nói trên. Tuy nhiên, không vì thế mà những yêu cầu về bảo đảm an toàn, bảo đảm cuộc sống người dân địa phương nơi đặt công trình bị coi nhẹ. Con người tác động vào thiên nhiên chắc chắn sẽ gây ra cả các ảnh hưởng về môi trường với rừng đầu nguồn, chế độ dòng chảy, hệ sinh thái dưới nước và ven bờ, mực nước ngầm của Đồng bằng Bắc Bộ… Làm thế nào để tất cả những tác động tiêu cực được giảm tối đa là yêu cầu bắt buộc đối với những người làm dự án.

- Tổng dự toán 32.568,590 tỉ VNĐ (sau thuế) theo mặt bằng giá quý II/2008;

- Mực nước dâng bình thường (MNDBT) là 295m;

- Mực nước chết (MNC) là 270m;

- Dung tích toàn bộ hồ chứa là 1.215 triệu m3;

- Công suất lắp đặt máy là 1.200MW gồm 04 tổ máy;

- Phương án lựa chọn công nghệ thân đập: Đập trọng lực với công nghệ bê tông đầm lăn (RCC);

- Điện năng trung bình năm là hơn 4.7 tỉ KWh;

- Số giờ sử dụng công suất lắp máy là 3.920h;

- Diện tích đất sử dụng là 4.636ha, trong đó: vùng mặt bằng công trình là 673ha; vùng hồ chứa: tương ứng với MNDBT 295m là 3.963 ha;

- Số dân phải di chuyển đến nơi ở mới là 1.331 hộ/5.867 khẩu[i] thuộc 8 xã và 1 thị trấn.

[i] Số liệu cập nhật đến tháng 12-2008

HỒ QUANG PHƯƠNG