Xã hội Việt Nam sau khi thống nhất đất nước và tiến hành đổi mới có nhiều chuyển biến đem đến những sắc thái mới trong đời sống. Trên bình diện tổng quát, có thể thấy ở thời điểm này các giá trị căn bản thuộc về con người được tái sinh như là một đòi hỏi bức thiết nhất, chi phối đến sự hình thành hệ thống các giá trị đạo đức mới. Trên tinh thần đó, nhà văn Việt Nam, từ nhận thức, thái độ, hành vi của mình đã trình ra một thứ “sách xanh” trước thời đại, đất nước. Xã hội Việt Nam sau giải phóng dần trở lại trạng thái thế sự vốn là trạng thái có tính mặc nhiên. Đại hội Đảng lần thứ VI về cơ bản đã tạo hành lang pháp lý cho văn học nghệ thuật, hướng đến tự do sáng tác, phê bình trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, phát triển nền văn nghệ phong phú, đa dạng…

Tuy nhiên, cần thấy rằng, quy luật phát triển tất yếu của đời sống xã hội cũng là yếu tố then chốt, mở ra những điều kiện mới, đòi hỏi mới cho việc sáng tạo nghệ thuật. Sáng tạo nghệ thuật lúc này là hành vi cá nhân đáp ứng quy luật vận động và tính hợp lý đời sống làm nên sắc thái của luân lý, đạo đức. Tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, thể hiện thái độ, trách nhiệm của con người trước xã hội là một phạm trù thuộc về đạo đức mà các nhà văn Việt Nam đã bày tỏ một cách đậm nét trong sáng tác của họ. Thái độ, trách nhiệm của trí thức đối với xã hội vốn đã hình thành và tồn tại trong lịch sử văn học dân tộc. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn, thời đại, chủ điểm của nó lại khác nhau. Văn học đương đại chứng kiến sự tái sinh của ý thức này trong cá tính, bản sắc của nhà văn thời kỳ đổi mới và quan trọng hơn, nó được nhìn từ góc độ con người bản thể. Nhưng, cũng phải nhận thấy rằng, phẩm tính con người cá nhân bản thể này không tách rời (vừa là động lực vừa là hệ quả) với hệ thống đạo đức xã hội mới. Từ góc nhìn của văn học, trong những vận động của tinh thần, đạo đức xã hội giai đoạn này nổi bật lên nhiệm vụ phát triển con người một cách toàn diện, khắc phục các tình trạng thiếu khuyết ở giai đoạn trước. Các vấn đề về nhân tính, giới tính, tâm linh, bản sắc, diện mạo, thân phận, các bình diện bị khuất lấp của con người,… được đặt ra như là “điều đáng làm” trong xã hội và văn chương nghệ thuật. Tác phẩm ra đời vừa là một thực hành đạo lý từ góc độ nghệ thuật (mỹ học), vừa là một phản hồi, bổ sung vào hệ thống đạo đức để hướng đến một nhận thức, hình dung đầy đủ, toàn diện hơn: Những đường cong khỏa vào sóng chữ/ Em say nắng mất rồi, em say thêm nữa nhé/ Mặc cho búp hôn thụ phấn thân người (“Say nắng” - Vi Thùy Linh),… Thời bây giờ, yêu cho đủ đầy, toàn vẹn, đi đến tận cùng, tận độ những xúc cảm yêu đương phải xem là một thứ đạo đức của xã hội, hướng tới giá trị nhân bản. Nếu không đi tìm, yêu và cất lời hoan/bi/tụng ca về tình yêu, cuộc đời sẽ chỉ còn lại những cỗi cằn, hoang liêu, cô độc.

Văn chương đương đại có thể nói là một “bản tường trình” về con người sau chiến tranh, nói lên đạo đức xã hội đang hiện diện, “cần”, “nên” và “phải là”. Các tác giả từng ngày tạo nên diện mạo, thân phận của mình thông qua ý thức về “điều đáng làm” trong đời sống và trong thế giới nghệ thuật mà họ tạo dựng. Điều đáng làm ấy có khi là trách nhiệm đối với bản thân, trách nhiệm của công dân đối với đất nước, là ý thức về việc trân trọng quá khứ: Phải từng chờ đợi dài lâu/ Tháng năm xa cách hai đầu tiền phương/ Phải qua máu đổ chiến trường/ Mới về hạnh phúc trên đường chiều nay (“Con đường có lá me bay”-Diệp Minh Tuyền). Nhà văn tham dự vào cuộc đời theo cách riêng của họ, làm hiện lên cái vỉa tầng sâu kín của đời sống, cái không nhìn thấy, không đo đếm được của cõi nhân sinh. Xét một cách toàn thể, thông điệp của văn chương đã tham góp vào việc hình thành giá trị thẩm mỹ, nhân văn, đạo đức của xã hội. Hàng loạt tác phẩm ra đời ngay sau giải phóng và sau đổi mới, cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990 và kéo dài đến hôm nay đã cho thấy sự vận động của hệ giá trị, đạo đức, luân lý xã hội trong đời sống mới. Từ Nguyễn Minh Châu đến Lê Lựu, Hữu Thỉnh, Bảo Ninh, Chu Lai, Dương Hướng, Nguyễn Quang Thiều… đã thể hiện trong sáng tác của mình những nhận thức sâu sắc về đạo đức, luân lý và tư tưởng thẩm mỹ mới của thời đại. Nhạy cảm với thời đại, họ đã xây dựng thế giới nghệ thuật như là những hiện thực của đời sống dưới góc nhìn của người nghệ sĩ.

Đất nước thống nhất và tiến hành đổi mới đã làm thay đổi cấu trúc xã hội về mặt đạo đức, luân lý, giá trị quan, thế giới quan. Trong bối cảnh đó, người nghệ sĩ thể hiện sự tồn tại, vai trò trong đời sống, văn chương nghệ thuật bằng chính tác phẩm của mình. Đổi mới, sáng tạo trên cơ sở ý thức sâu sắc về giá trị con người, giá trị thẩm mỹ hướng tới một đời sống nhân văn chính là khía cạnh đạo đức mà một nhà văn chân chính chắc chắn không bao giờ hời hợt, sao nhãng hay lảng tránh. Bởi, xét đến cùng, giá trị nghệ thuật, giá trị đời sống của tác phẩm chính là đạo đức của mỹ học sáng tạo.

TS NGUYỄN THANH TÂM