GS Mã Giang Lân sinh năm 1941, tên thật là Lê Văn Lân. Bút danh Mã Giang Lân xuất phát từ quê hương vùng Nam Ngạn, Thanh Hóa-nơi có dòng sông Mã nổi tiếng chảy qua. Là người rất mực yêu thơ, GS Mã Giang Lân đã đồng hành với thơ trong suốt cuộc đời mình trên cả 3 phương diện: Sáng tác, nghiên cứu và giảng dạy.
Về sáng tác, cho đến nay, GS là tác giả của 9 tập thơ, có thơ đăng trên các tạp chí văn học uy tín. Trong cuộc thi thơ do Báo Văn nghệ tổ chức năm 1969, ông giành giải ba với hai bài “Trụ cầu Hàm Rồng”, “Bình minh trên sông”. Tập thơ “Những lớp sóng ngôn từ” của ông được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng năm 2013.
 |
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Mã Giang Lân (thứ nhất, bên trái, hàng đầu) và các đồng nghiệp. Ảnh: TÂM ANH |
Ở lĩnh vực giảng dạy, với hơn nửa thế kỷ đứng trên giảng đường đại học, ông đã truyền tình yêu, niềm đam mê và tri thức về thơ cho nhiều thế hệ sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh; đã từng sang Pháp giảng dạy về văn học Việt Nam nói chung, thơ ca Việt Nam nói riêng tại Trường Đại học Paris VII. Ghi nhận những cống hiến của ông trong sự nghiệp "trồng người", Đảng, Nhà nước ta đã trao tặng GS danh hiệu Nhà giáo Nhân dân.
Đối với lĩnh vực nghiên cứu, GS là tác giả của hàng loạt công trình khảo cứu, phê bình chuyên sâu về thơ như: “Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam” (2000); “Thơ-hình thành và tiếp nhận” (2004); “Những cấu trúc của thơ” (2011)... Đây đều là những sách “gối đầu giường” cho những người nghiên cứu thơ ca Việt Nam. Những công trình nghiên cứu, phê bình bàn về thơ của GS Mã Giang Lân đã đề cập, bao quát và giải quyết một cách thấu đáo nhiều vấn đề về thơ từ vi mô đến vĩ mô, từ cấu trúc đến hình thức, từ ngôn ngữ đến thể loại văn bản, liên văn bản, từ cách cảm nhận cảm tính đến việc tiếp nhận lý tính trên cơ sở khoa học. Trên bình diện lý thuyết, GS Mã Giang Lân có những kiến giải khoa học sâu sắc về các vấn đề: Định nghĩa thơ; ngôn ngữ và nghĩa trong thơ; cái tôi, chủ thể sáng tạo và phát ngôn trong thơ; ý và tứ thơ; câu thơ-nhịp thơ-biểu tượng thơ; những tiêu chí đánh giá thơ từ góc độ thẩm mỹ; các thể loại thơ; các phương pháp nghiên cứu thơ... Với lịch sử thơ ca, ông có những nghiên cứu chuyên sâu về các giai đoạn quan trọng của nền thơ ca nước nhà như giai đoạn Thơ mới 1932-1945, giai đoạn văn học chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ 1946-1975, giai đoạn tiền đổi mới 1975-1985, sau đổi mới 1986 và thơ đương đại hôm nay về đội ngũ sáng tác, trào lưu sáng tác, phương pháp sáng tác, nội dung chủ đạo, thể loại, những tín hiệu thẩm mỹ, chỉ ra sự thống nhất và khác biệt giữa các giai đoạn. Ông cũng chú trọng đến những giai đoạn thơ ca chưa được giới nghiên cứu, phê bình chú ý đúng mức như thơ ca trong các vùng bị tạm chiếm.
Về các tác giả thơ tiêu biểu, những bài viết của GS về Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Quang Thiều... công phu, chỉ ra được cái hồn, cái tinh túy trong thơ của những tên tuổi ấy. Các hiện tượng thơ độc đáo, thú vị và thu hút được sự quan tâm của nhiều người như thơ một bài, chất thiền trong thơ đương đại, thơ và đời sống tâm linh, bản quyền thơ, tính dục trong thơ trẻ đương đại... cũng được GS bàn bạc kỹ với những nhận xét, đánh giá tinh tế, sắc sảo. Với những cống hiến không mệt mỏi trong suốt hơn nửa thế kỷ cho nghiên cứu thơ ca, năm 2022, GS Mã Giang Lân đã vinh dự được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ.
Ngoài thơ ca, GS Mã Giang Lân cũng dành mối quan tâm, sức lực cho nhiều vấn đề khác của văn học Việt Nam. Ông có những công trình sưu tầm, biên soạn về văn học dân gian, những tìm tòi, phát hiện thú vị về những cuộc tranh luận, phê bình văn học; những phản biện, góp ý xác đáng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn nói chung, dạy thơ nói riêng trong chương trình giáo dục phổ thông.
Trong mỗi công trình, bài viết về thơ, ông luôn thể hiện tinh thần, thái độ “thực sự cầu thị, xem lại mình”, mong muốn nhận được những góp ý, chia sẻ chân thành của bạn đọc. Những lời bộc bạch chân tình của một con người qua độ tuổi “tòng tâm sở dục bất du củ” (làm theo ý mình, thuận theo tự nhiên, không ra ngoài khuôn khổ) làm chúng ta thấm hơn không chỉ là tấm lòng, là lao động khoa học nghiêm túc, miệt mài mà còn là thái độ, văn hóa sống chuẩn mực của nhà nghiên cứu Mã Giang Lân.
Tiến sĩ ĐOÀN MINH TÂM