Đó là tiếng nhạc của những chú chim yêu người yêu đời. Vì yêu nên làm trong trẻo tiếng hót. Nhưng ở ngoại ô thành phố, nhà cửa chen lấn, đất đai thu hẹp, nhà với nhà không được “kết nối” bởi những tường rào bằng cây râm bụt hay cây ô-dô có cửa thông qua nữa. Thay vào đó là bức tường gạch. Trên nóc những bức tường gạch, người ta cắm lên hàng nghìn hàng vạn mảnh chai, mảnh sành vỡ để cản người trèo qua. Giờ ở làng quê, cảnh kín cổng cao tường, tường lại cao vời vợi đã trở thành chuyện quá ư bình thường. Vừa để tránh trộm cắp, người lạ xâm nhập, vừa tạo sự an toàn cho gia chủ. Thậm chí chúng được xây để tạo sự ngăn cách với hàng xóm láng giềng khi đôi bên có hiềm khích.
 |
Minh họa: TÔ NGỌC. |
Đi nhiều vùng quê, chứng kiến những bức tường ấy, thấy lòng se lại và chạnh buồn. Buồn bởi xưa kia ở vùng quê, hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau, nên có câu ca dao “Bán anh em xa mua láng giềng gần”. Giờ nông thôn thay đổi nhiều quá. Nông thôn bị đô thị hóa. Nông thôn bị lối sống đô thị tràn qua, làm mai một vẻ đẹp và nền nếp làng quê. Không còn những con ngõ dài, mở thông thống cho bất cứ ai đi vào bất kể giờ nào. Giờ thay vào đó là tường gạch, cổng gạch bê tông, có cánh cửa sắt im ỉm khóa. Ai đến phải gọi cửa. Chủ nhà ra mở mới vào được. Xưa thì chủ đi vắng, quên đóng cửa nhà thì hàng xóm đi qua có thể đóng hộ. Xưa gia đình thiếu gạo, chúng tôi vẫn thoải mái sang hàng xóm vay gạo theo bơ, đấu, ca… sau đó đong được gạo hoặc đến mùa lúa mới thì mang trả. Giờ nếp ấy đã không còn. Không còn bởi văn hóa làng quê thay đổi. Làng không còn nền nếp của làng, không gian làng. Thay đổi vì giới trẻ cứ lớn lên là ra đi, xa làng. Ở lại chỉ còn người già, trẻ em, vốn là đối tượng yếu thế. Trẻ đi xa thì ngấm chất sống đô thị, lấy vợ sinh con, lập nghiệp ở đó. Làng chỉ còn là chỗ bọn trẻ ghé chân, về thăm cha mẹ, thắp hương cho tổ tiên rồi lại nhanh chân ra phố. Làng quê bị bỏ lại phía sau. Người già bị bỏ lại ở quê. Khi người già mất thì cũng ít người trẻ về đưa tiễn. Chỉ còn người già đưa tiễn người già. Ở quê tôi có một sự thay đổi khủng khiếp. Trước năm 2000, quê tôi còn nghèo. Nghèo nên làng nhiều thanh thiếu niên. Một người mất, cả thôn làng đưa tiễn, có nhiều ban bệ, trong đó có cả đội thiếu nhi. Nay thì không còn.
Quay trở về với bức tường mảnh chai, bác tôi, một nhà giáo yêu chữ và yêu văn hóa làng, mới đây đã phá bỏ hàng rào do hàng xóm bỏ hoang ngôi nhà của họ, rồi được chuyển nhượng cho một trọc phú khác. Trọc phú phá không gian cũ và xây ở chỗ đó một biệt thự, nuốt hết không gian nhà bác tôi, liên tục mở nhạc xập xình, khách đến xăm trổ đầy người. Họ có vẻ không thiện cảm nên bác tôi xây tường gạch bao quanh và gắn những mảnh thủy tinh, mảnh sành lên nóc tường.
Đáng nói là từ đó đến nay, tôi không thấy chú chim nào về hót trên tường nữa. Tường vẫn là tường, nhưng thay vì trồng cây cối thì giờ là gạch, vôi vữa và thủy tinh. Mà loài chim thì không thích những mảnh thủy tinh sắc nhọn. Chúng sợ bị cứa đứt chân, sợ bị cứa mất giọng hót hay tâm hồn, nên mất dạng.
Những bức tường thủy tinh không chỉ cản ngăn con người, mà còn cản ngăn loài chim. Những tiếng chim vẫn quẩn quanh đâu đây. Nơi cây khế góc vườn, dưới tán bưởi phía bờ ao, hay trên vạt mây góc trời.
Dù thế nào thì đó cũng là một mất mát. Không chỉ mất tiếng chim, những chuyến trở về với thiên nhiên. Con người đã đánh mất nhiều thứ, trong đó là mảnh hồn làng, tình người, và sự gần gũi với thiên nhiên cao thượng.
Tản văn của NGUYỄN VĂN HỌC