Vợ Ta-síc ngồi bên bếp, im lặng nhìn chồng.
Họ vừa mới chỉ kết hôn hôm qua và đêm qua cũng là đêm đầu tiên của họ. Sáng ra, vợ Ta-síc còn chưa dám nhìn kỹ mặt chồng. Có lẽ Ta-síc cũng còn đang ngượng, và im lặng nãy giờ. Nhưng trong lúc ăn sáng, anh đã xúc thêm hai muỗng cơm vào bát vợ. Người ta vẫn nói rằng, hai muỗng cơm giúp vợ chồng xích lại gần nhau hơn.
Cô mới gặp Ta-síc một lần trước khi cưới. Tất cả những gì cô thấy trong lần gặp ấy cũng chỉ là đôi chân Ta-síc. Đêm qua, cô cũng không nhìn rõ được anh trong bóng tối. Vì vậy, dù đã có một đêm với nhau, cô cũng chưa nhớ rõ mặt chồng. Chỉ biết rằng ông mối bảo khó có thể kiếm đâu ra được người hòa nhã hơn anh.
Về phần mình, chẳng phải là quá xinh đẹp, nhưng cô có nghe mọi người trong làng nói rằng, đám trai trẻ cứ như bị “đốn tim” hễ nhìn vào đôi mắt đen láy, lúc nào cũng long lanh ngấn nước của cô.
Đám cưới diễn ra đơn giản, chỉ mười ngày sau khi gặp mặt. Ta-síc quyết định đi đến hôn nhân dù trước đây anh chưa bao giờ gặp cô. Anh biết cô là con cả trong một gia đình đông con. Cha mẹ cô đồng ý ngay lập tức. Họ vui mừng khi giảm được một miệng ăn.
Do trời mưa nên đám cưới chẳng có gì nhiều nhặn. Một đĩa bánh, hai đĩa cơm, hai bát súp được bày ra trên chiếc bàn trong tiền sảnh nhà ông Lee, ông chủ Ta-síc vẫn làm thuê. Ta-síc và cô dâu cúi đầu giao bái, và họ trở thành vợ chồng. Đám cưới không có khách mời, nhưng Ta-síc thực sự hạnh phúc.
Cô dâu cũng chẳng có của hồi môn, thậm chí một tấm vải cũng không. Sau lễ cưới, Ta-síc đi trước, cô dâu theo sau. Họ chỉ có hai chiếc muỗng, hai đôi đũa, hai chiếc bát, một lọ tương ớt, một lọ nước tương, một chiếc nồi, hai chiếc chăn và một chiếc gối.
Trời vẫn mưa tầm tã.
Ta-síc nhìn mặt nước chăm chăm. Rất nhiều thứ bị lũ cuốn trôi. Có thứ gì đó màu sắc sặc sỡ trôi qua. Đệm và một tấm ga giường! Có lẽ chúng đã được buộc lại với nhau.
“Ga và đệm”, Ta-síc lẩm bẩm: “Mình đang cần một bộ như vậy”. Anh quay lại nhìn cô dâu của mình, bắt gặp đôi mắt long lanh ngấn nước của cô. Bất chợt Ta-síc không thốt nên lời. Anh nhận ra đây là lần đầu tiên cô nhìn rõ mặt anh.
Ta-síc quay lại nhìn dòng nước. Bộ ga, đệm đã trôi xa ngoài tầm với.
“Anh ơi...”, vợ Ta-síc gọi nhỏ.
Nhưng ngay lúc đó, Ta-síc kêu to, nhảy vội ra khỏi hiên, và lao vào dòng nước.
“Anh!", Ta-síc nghe tiếng vợ thảng thốt gọi.
Mưa càng ngày càng nặng hạt. Nước lũ cuốn ầm ầm.
Ta-síc lao thẳng ra giữa dòng, nắm chặt lấy chiếc chuồng lợn đang trôi. Anh biết bây giờ vợ mình đã hiểu. Chắc cô vẫn nhớ ông Lee đã hứa cho vợ chồng anh một con lợn và đợi xem vợ chồng anh sẽ làm gì với nó.
Con lợn sẽ lớn. Chỉ cần nuôi sáu tháng là nó có thể đẻ được. Đôi khi một lứa lợn có đến năm, sáu con. Chúng lại lớn lên và tiếp tục sinh đẻ. Có thể bán những con đực, còn con cái thì giữ lại. Mỗi con lợn có giá từ mười tới mười lăm nghìn đồng. Phân lợn làm phân bón cũng rất tốt. Lúa sẽ tốt hơn.
Ta-síc chưa bao giờ có đủ tiền để làm một chiếc chuồng lợn. Một chiếc chuồng lợn phải chắc chắn, nếu không lợn sẽ phá và chạy đi mất. Ta-síc nắm chặt lấy một góc chiếc chuồng lợn bằng gỗ, cố kéo lên bờ. Thế nhưng, nước lũ quá mạnh. Chiếc chuồng lợn chẳng hề di chuyển.
“Đi nào!”, Ta-síc hét to, kéo mạnh. Bùn, nước văng tứ tung. Nước chỉ còn ngập đến thắt lưng, nhưng lòng sông như sôi sục dưới cơn mưa ngày càng lớn. Đã có lúc chiếc chuồng lợn bị sóng đẩy vào bờ. Thế nhưng, chỉ lúc sau, những con sóng khác lại giật nó trở lại lòng sông.
“Này, đừng đùa thế chứ!”, Ta-síc hét lên, tay vẫn giữ chặt chiếc chuồng lợn. Một con sóng trùm lên, lôi cả hai trôi rất nhanh xuống sông. Giờ thì anh không thể bỏ chiếc chuồng lợn ra được nữa. Làm vậy, có thể anh sẽ chết đuối. Anh cũng không thể cứ bám mãi vào nó được vì sẽ chẳng thể biết con sóng sẽ đưa anh đến đâu. Ta-síc hoảng sợ. Anh muốn kêu cứu nhưng xung quanh không một bóng nhà. Ngay cả nhà anh cũng ra ngoài tầm mắt. May ra thì gặp được một chiếc thuyền vớt củi nào đó. Người ta vẫn thường làm vậy mỗi khi nước lên.
Những con sóng văng lên, đập xuống điên cuồng. Cứ thế này Ta-síc sẽ bị vùi xuống bùn. Anh nhắm chặt mắt, miệng. Mấy ngọn đồi bên bờ sông giờ trông hoàn toàn xa lạ. Chịu! Không thể biết anh đã bị trôi đi bao xa về phía hạ lưu.
Quá sợ hãi, Ta-síc chẳng còn bụng dạ nào nghĩ đến chiếc chuồng lợn nữa. Tất cả những gì anh nghĩ là làm thế nào quay được vào bờ và về nhà.
Một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng. Ngâm mình trong nước đã khá lâu, Ta-síc bắt đầu thấy ớn lạnh. Nếu bị lạnh, anh sẽ không bơi được nữa. Anh thực sự sợ hãi.
Đột nhiên Ta-síc thấy một chiếc bè cách anh không quá năm mươi mét. Trên bè là hai người đàn ông đang đi vớt đồ. Anh cất tiếng gọi. Hai người trên bè không nghe thấy. Cũng có thể họ nghe thấy nhưng vờ như không. Họ chẳng thèm để ý. Anh nhớ đã nghe ai đó nói rằng dân sông nước không cứu người đuối nước. Ý nghĩ khiến anh bừng lên tức giận. Làm sao người ta có thể không giúp người gặp nạn kia chứ?
“Cứu, cứu!”, Ta-síc hét lên, buông chiếc chuồng lợn, bơi cật lực về phía chiếc bè. Nhưng anh đang bơi ngược dòng. Bùn, nước bắn tung tóe vào mắt, vào mũi anh trong khi chiếc bè ngày càng bơi ra xa. Ta-síc giận dữ nghĩ, nếu lên được bè, anh sẽ ném hai “thằng khốn” đó xuống sông!
Ta-síc tiếp tục bơi cắt chéo dòng nước về phía chiếc bè. “Cứu”, Ta-síc vừa bơi vừa kêu to. Không ai trả lời. Cả hai đang mải mê vớt đồ.
“Cứu với!”, Ta-síc lại hét lên. Vẫn không có câu trả lời.
Mưa càng thêm nặng hạt, gió càng ngày càng to. Nhưng trong cái rủi có cái may. Những con sóng dồn dập đẩy Ta-síc gần hơn tới chiếc bè. Ta-síc cuống cuồng bơi tới, vội vã nắm lấy thành bè, cứ thế bám vào đó cho đến khi một trong hai người kéo anh lên.
Gần như kiệt sức, Ta-síc nhắm mắt, nửa tỉnh nửa mê. Cuối cùng anh cũng ngồi dậy được và nhìn lại mình. Chiếc sơ-mi trên người chỉ còn là một mẩu nhỏ mắc lại trên vai phải. Quanh eo cũng chỉ còn mỗi chiếc thắt lưng và mấy con đỉa quần. Phần còn lại đã bị nước cuốn trôi.
“Chúng ta đang ở đâu đây?”. Anh hỏi.
“Qua Đăng Gô-un một chút", một trong hai người đàn ông trả lời.
Vậy thì cũng không quá xa, Ta-síc nghĩ. Chỗ này chỉ cách nhà anh một quả đồi. Ta-síc tạm thấy yên tâm.
Trời đã sẩm tối. Vậy là Ta-síc đã ngâm mình trong nước suốt cả buổi chiều.
Khi chiếc bè tiến vào bờ, đột nhiên Ta-síc nhìn thấy chiếc chuồng lợn lúc nãy đã bị sóng đánh dạt lên bờ. “Cảm ơn các anh rất nhiều!”, Ta-síc hét lên và nhảy xuống nước, chạy vội vào bờ trong sự ngạc nhiên của hai người đàn ông.
Chiếc chuồng lợn ngập trong nước và rất khó di chuyển. Ta-síc vội vã tháo các thanh gỗ ra, buộc lại thành bó gọn gàng và kéo nó ra phía sau, dẫu rất nặng.
Cứ thế, không một mảnh vải trên người, Ta-síc kéo theo bó gỗ, run rẩy vì lạnh. Nước mưa giờ đây như những viên đá lạnh buốt đâm vào người anh.
Vợ Ta-síc bật khóc nức nở khi anh về đến nhà. Chắc cô đã khóc rất nhiều từ lúc anh đi, mắt cô đã sưng cả lên. Anh nhìn cô, cố gắng mỉm cười rồi đổ sụp xuống.
Ta-síc run lên từng cơn dữ dội. Vợ anh trải một tấm chăn phía dưới, chiếc còn lại trùm kín bên trên, nhưng anh không ngừng run rẩy. Trong nhà không còn gì để đắp thêm cho anh.
Vợ Ta-síc cố tìm cách nhóm lửa, nhưng chẳng ích gì, củi đuốc đều ướt cả. Cô quay lại bên anh, nhìn tấm chăn cứ rung lên từng đợt. Cô biết rằng phải sưởi ấm cho Ta-síc bằng mọi cách. Cô cắn môi đến bật máu, nghĩ cách.
Cô đỏ mặt, nắm lấy tay anh, tự nhủ bây giờ không phải lúc để ngượng ngập. Tay anh lạnh như nước đá. Hoảng sợ, cô ôm chặt lấy chồng trong khi xoa mạnh hai bàn tay anh. Tim cô đập thình thịch. Chỉ còn cách đó, cô nghĩ. Chỉ có thể sưởi ấm cho anh bằng chính cơ thể cô.
Không còn cảm giác ngượng ngùng, cô ôm chặt lấy cơ thể đang lạnh cóng của chồng, ép chặt môi mình lên khuôn mặt anh. Môi anh đã lạnh như băng, cứng dần lại; mắt nhắm chặt, anh hoàn toàn bất tỉnh.
Người ta vẫn nói rằng một người sắp chết môi sẽ cứng lại. Nhớ tới điều đó, trái tim cô thắt lại. Không có thuốc, không có lửa, chẳng có hàng xóm ở bên, cô chỉ còn cách dùng đôi tay xoa mạnh khắp cơ thể chồng và dùng hơi ấm của chính cơ thể mình để sưởi ấm cho anh.
Trời đã tối hẳn. Mưa ngớt dần.
“Đừng chết. Anh không được chết!”, cô thì thầm, nước mắt ầng ậng. Hai tay cô đau buốt nhưng cô không hề ngừng lại.
Cuối cùng, người Ta-síc cũng ấm dần lên, rồi chuyển sang sốt. Người nóng như lò than. Ta-síc mê sảng không ngừng la lên những âm thanh khó hiểu.
Cả đêm cô không ngủ, ngồi canh và lau hạ sốt cho anh. Trời vẫn tiếp tục mưa.
Bình minh lên, cơn sốt cũng qua. Tỉnh dậy, Ta-síc đã thấy vợ đặt bên cạnh một bát cháo nóng. Anh ngồi dậy, rửa mặt. Trông anh xọp hẳn đi chỉ sau một đêm. Tuy nhiên, trên gương mặt đã có chút sinh khí.
Vợ anh đặt bát cháo xuống, ngước lên nhìn anh đầy yêu thương. Ta-síc mỉm cười ngượng nghịu, cúi xuống húp một hơi.
Đẩy chiếc bàn qua một bên, Ta-síc kéo vợ ngồi xuống. Anh ôm chặt lấy cô, nhìn sâu vào đôi mắt long lanh ngấn nước của vợ, đầy yêu thương.
Ngoài kia mưa vẫn rơi. Nhưng anh biết “sau cơn mưa, trời lại sáng”.
Truyện ngắn của HAN MAN-SÚC (Hàn Quốc)
HUY PHONG (dịch)