Trời đã bắt đầu trở mình chuyển mùa mưa cũng là lúc tụi nhỏ chúng tôi xôn xao, háo hức chuẩn bị cho một mùa giăng câu.
Bố tôi bảo: “Đêm nằm nghe thấy sấm đất ì ùng từ xa vọng lại là mùa mưa đang đến”. Cách đó mấy ngày đã thấy trời khang khác, về sáng trời trở lạnh hơn. Nửa đêm bố lại đắp cho tôi tấm chăn mỏng ngang ngực. Những lúc như thế, anh trai tôi lấy bộ dây câu gác trên bếp từ năm ngoái xuống để kiểm tra. Bộ dây được quấn vào chiếc khung làm bằng tre hình lục giác, chỉ cần quay là dây câu được quấn vào hoặc thả ra gọn gẽ. Anh bảo: “Mày cầm một đầu dây chạy ra ngoài ngõ”. Tôi hí hửng làm theo như một phụ tá đắc lực của anh. Anh cầm đầu dây bên kia kiểm tra từng đoạn một, tỉ mỉ nối lại những chỗ dây bị đứt, thay lại những chiếc lưỡi câu bị hỏng. Anh bảo quan trọng nhất là lưỡi câu, phải chọn những chiếc làm từ thép tốt, có độ nhọn, ngạnh sắc để khi cá cắn câu thì không giãy thoát được.
Chờ mãi cuối cùng trời cũng mưa. Tối hôm đó anh trai giục tôi ăn cơm sớm để ra đồng bắt nhái. Nhái là món ăn khoái khẩu của cá lóc vì thế nó làm mồi câu là hợp nhất. Chuẩn bị một chiếc đèn đã nạp đầy điện, một chiếc giỏ, tôi theo anh ra đồng. Trời vừa mưa, giàn "đồng ca" các loại côn trùng mở đêm nhạc hội ăn mừng bằng một mớ âm thanh hỗn độn. Những chú nhái ngồi bên vệ cỏ khoan khoái tận hưởng sự mát mẻ sau cơn mưa đều bị bàn tay khéo léo của anh em tôi tóm gọn. Khi ướm chừng đã đủ cho buổi câu anh giục tôi ra về. Những cơn gió sau cơn mưa đuổi nhau lang thang khắp cánh đồng thổi vào chúng tôi mát rượi.
Chiều hôm sau ăn vội chén cơm nguội, anh vác dây câu đi trước, tôi xách giỏ nhái theo sau. Ánh nắng cuối chiều hình rẻ quạt hắt lên nền trời xanh thẫm. Những cánh cò sau một ngày kiếm ăn thảnh thơi bay về núi. Chúng tôi ra đồng Đầm để thả câu. Đây là cánh đồng trũng nhất làng tôi, ruộng chạy dọc theo bờ mương dẫn ra cái đầm lớn tương đối sâu không bao giờ cạn nước. Trời mưa, cá từ dưới đầm lên các ruộng lúa này kiếm ăn rất nhiều.
Đi dạo một vòng, anh tôi quyết định thả câu. Anh đi trước rải dây trên mép lúa, tôi đi theo sau móc mồi. Khi móc nhái vào lưỡi câu phải móc vào bụng để nhái còn sống và giãy trên mép nước thu hút sự chú ý của cá. Kỹ thuật này được anh dạy tỉ mỉ từ lâu nên tôi thuộc làu làu. Bàn chân lội xuống ruộng phải thật chậm và khẽ tránh đánh động đến bầy cá. Vừa đi vừa nghe tiếng cá quẫy đuôi, đớt mồi bợp bợp trong đám lúa, lòng tôi khấp khởi mừng thầm. Thả xong dây, hai anh em lên một cồn cao ngồi ngắm sao và dõi nghe tiếng cá đớp mồi. Tai anh tôi rất thính, chỉ cần nghe tiếng động là biết cá to hay nhỏ đã cắn câu ở góc nào.
Trời dần về khuya, sau khi đã nói hết chuyện trên trời dưới đất, thấy tôi cũng đã buồn ngủ anh quyết định đi thu dây. Đoạn dây nào bị kéo căng ra xa chắc chắn là có cá hoặc lươn, thi thoảng còn có những chú rắn nước háu ăn cũng bị “dính đòn”. Ngán nhất là gỡ mấy chú rắn, không cẩn thận là bị chúng đớp vào tay đau điếng. Những chú cá lóc đầu mùa béo mẫm, bụng đã căng trứng, những chú lươn đen nhẫy lần lượt chui đầu vào giỏ trong niềm vui sướng của chúng tôi. Thu xong dây trời đã về khuya, hai anh em rảo bước đi về trên cánh đồng xanh thẫm lúa, chỉ còn tiếng vạc đều đều thả vào đêm tĩnh lặng.
Thành quả sau một đêm vất vả bì bõm lội bùn được chế biến thành những món ăn hấp dẫn dưới bàn tay khéo léo của mẹ tôi. Những chú cá lóc to được nướng rơm thơm nức. Bố tôi khoái món đó, ông thường nhâm nhi với mấy chén rượu thật ngon lành. Những con nhỏ hơn mẹ làm sạch cắt khúc kho với nghệ. Những khúc cá vàng ươm ăn với cơm nóng béo ngậy nơi đầu lưỡi. Tôi khoái nhất là ăn trứng cá lóc, vừa béo, vừa bùi, vừa thơm vì vậy thường được mẹ dành phần. Còn những chú lươn được mẹ nấu cháo cho anh tôi học khuya ôn bài.
Mùa giăng câu kéo dài chỉ tầm hơn tháng, những hôm được nhiều ăn không hết mẹ còn cho hàng xóm và ra chợ bán. Cái chợ quê nghèo xôn xao bày bán la liệt chỉ toàn cá với lươn.
Giờ đây, anh em chúng tôi đã lớn, những mùa thả câu chỉ còn trong ký ức. Lại một mùa mưa đến, ùa về trong tôi nỗi nhớ hương vị cá đầu mùa mẹ kho thơm lừng góc bếp tưởng như vẫn còn thoang thoảng đâu đây.
VÕ VĂN AN