Lướt nhanh một lượt, người ấy tiến đến chỗ ông già phong điệu hom hem lễ phép hỏi lão chài: “Cụ bán cho tôi đôi chép đỏ”. Lão chài nghễnh ngãng: “Mua bán gì, xin thầy trả chút tiền vía cá cúng”. Người trẻ nhìn vào cái thau đồng của lão chài chỉ còn độc nhất một con đang thau tháu giương mắt nhìn khách thì thất sắc lẩm bẩm: “Sao chỉ có một con hả cụ?”. “Ừ, lão xin lỗi, năm nay bắt mãi chỉ được một con, thầy có dùng lão xin biếu. Một chốc mặt giời lên lão cũng thả ấy mà!”. Người trẻ thở dài, rút tiền đưa lão chài không nói gì thêm, cẩn thận cho cá vào chiếc thau đồng nhỏ mang sẵn rồi đi thẳng xuống bến sông, đến sát mép nước tự nhiên không ai nhìn thấy đâu nữa. Lão chài nhìn với theo lẩm bẩm: “Hay là năm nay ứng nghiệm?”.
Lão chài nằm khểnh nhắm rượu suông với đêm sương đang hồi nhớ câu chuyện buổi sớm bỗng bến sông thấp thoáng một bóng người. Người bước lên thuyền mà thuyền không động đậy. Tiếng người khẽ khàng: “Thưa cụ. Có phải cụ là cháu cụ thủ từ đền Lăng Lê Tử Kình không?”. “Ừ, chính là lão đây!”. Lão chài hơi nhổm người. “Thưa cụ, hẳn cụ còn nhớ cái tên Lê Đức?”. Lão giật mình, ngồi bật dậy. Bất ngờ lão sụp lạy người trẻ tuổi. Người ấy vội đỡ lão lên. Lão nhìn người trẻ tuổi qua màn đêm rồi cất giọng nghẹn ngào và xa vắng: “Cụ thân sinh dặn tôi cứ ở đây chờ, thể nào cũng có tin của con cháu cụ Tổng”.
Người trẻ tuổi nhìn lão chài. Khoang thuyền chợt sáng hơn. Lão chài có khuôn mặt chữ đinh. Vệt lông mày trắng đậm đặc và chòm râu bạc khói sương trong khoang thuyền đơn sơ tạo ra một vẻ ấm áp, cương nghị trong đêm cô quạnh. “Cụ thủ từ mất rồi phải không?”. “Ừ, cha tôi mất sau ngày tiêu thổ kháng chiến”. “Đền Lăng tiêu thổ thì cụ thủ từ đi ư?”. “Không đi không được. Tôi cũng phải theo cha. Khi người mất, còn trăng trối với tôi bao giờ hậu duệ cụ Tổng về tìm thì cứ dẫn lên bãi đá thượng nguồn sông Lăng rồi tùy cơ định liệu. Đánh Pháp ở Điện Biên bị thương, tôi trở về đây đúng ngày Tết Độc lập mồng hai tháng chín. Vu lan nào tôi cũng bắt đôi chép đỏ đợi người của cụ Tổng”.
Người trẻ tuổi đỡ chén nước từ tay lão chài, lặng lẽ uống cạn. Đêm sông nước tịch mịch, lạnh lẽo, dòng sông thắt nhỏ như một sợi chỉ bạc. Hai người, một già một trẻ đối ẩm trong khoang. Đã bao nhiêu năm, người được giao sứ mạng chờ đợi giờ mới gặp được người tri kỷ của tiền nhân nay đã ẩn sang đôi vai thanh mảnh của một người trai trẻ. Người trẻ tuổi cung kính chắp tay tạ ơn lão chài xúc động bảo: “Bác đáng tuổi cha tôi, cứ nên xem tôi là hàng dưới. Nếu không có hai cuộc chiến tranh ác liệt, chắc chắn ông tôi, cha tôi phải sớm đến được đây rồi. Thưa bác, sau Tết Độc lập này tôi nhận lệnh vào Nam. Chiến tranh chả biết thế nào. Tôi muốn bác hãy kể về gia tộc nhà tôi, để tôi ghi nhớ rồi có thể tiện thì biên soạn tiếp bộ gia phả. Âu cũng là nguyện vọng và di huấn của cụ tổ, của cha ông và gia tộc họ Lê”.
Lão chài nghe như nuốt từng lời. Hai hàng lệ từ từ nhỏ xuống lòng thuyền, nước mắt thấm xuống mặt chiếc chiếu đã sờn rách vì mưa nắng.
Cụ Tổng vốn dòng dõi quan gia... Tiếng lão chài như dội lên từ dòng sông sâu thẳm... Quan gia thế phiệt nhất ở vùng đất cổ này. Cụ viễn tổ nhà anh vốn là quan đại thần rường cột của triều Lý, vì vướng vào lòng đố kỵ của quân tà nịnh mà chịu án lưu đày viễn xứ vùng biên trấn suýt nữa còn bị tru di cửu tộc nếu không nhờ một tiếng can của bậc nhiếp chính. Đến đời cụ Tổng nhà anh, lệ luật gia tộc nguyền rằng truyền đời không làm quan cho bất kỳ triều đại nào, chỉ khi đất nước nguy vong trước nạn ngoại xâm mới ra tay giết giặc, giặc tan lại về với chữ nghĩa thánh hiền. Nhưng chính vì cứu ông nội lão đây cụ mới dứt lòng theo Việt Minh từ những ngày trứng nước. Ông nội lão đây từng làm cướp vùng Quán Chuột.
- Làm cướp ư?
Người trẻ tuổi chợt sững mình nhìn lão chài. Vốn dòng dõi nho phong, người trẻ tuổi thông qua những gì tiền nhân căn dặn thì hậu duệ mà chàng sẽ gặp phải là những bậc túc nho dù có khốn khó đến mấy chưa bao giờ là quân tà đạo. Và dường như bậc tiền nhân đã ám chỉ rằng, những cháu con của các vị hiền điệt miền thượng Lăng truyền đời là thủ túc tin cậy của dòng dõi Lê Văn. Lẽ nào?
Lão chài vân vi chén nước, mắt rân rấn.
- Không có cụ Tổng có lẽ cũng chẳng có được thân tôi tiếp kiến anh hôm nay. Chuyện là thời ấy, thời cụ cố tôi thiên hạ nhiễu loạn, giặc Tây và lũ quan lại bóp hầu nặn cổ dân đen. Một hôm tên chánh tổng vùng Quán Chuột giữa đình say rượu thấy vợ cố tôi đi qua sân đình bèn giở trò bỉ ổi. Trời tối vắng vẻ đã đánh thức tà tâm của chánh tổng hay điềm gở ứng lên họ nhà tôi. Cố nội tôi vốn là một thầy dạy học cực giỏi kinh dịch bấm quẻ thấy thất kinh vội vã chạy ra đình. Đến nơi thì chuyện đã rồi. Uất ức và căm phẫn lão dê già. Chỉ mấy đường võ gia truyền, tên dê nọ đã tắt thở. Chuyện tày trời xảy ra trong khoảnh khắc. Biết là khó gỡ vì quan lại bấy giờ rặt một lũ cướp ngày. Cụ tổ dắt vợ con trốn biệt theo toán cướp vùng Quán Chuột, được tôn làm đầu lĩnh. Ngày ấy, toán cướp Quán Chuột nổi tiếng trượng nghĩa liên tài. Cũng là nhắm mắt đưa chân.
- Rồi thì. Rồi thì làm sao nữa?
- Sao ư? Còn làm sao nữa. Đã mang tiếng là đi theo giặc cướp, giấy truy nã dán la liệt khắp vùng, lại gặp nhà chánh tổng đút lót quan trên ra lệnh tróc nã gắt gao. Vốn người có học, chịu được khổ chứ không chịu được nhục, cố nội khổ tâm biết chừng nào. Bỗng một hôm số trời run rủi, trong một vụ cướp hàng, những người áp giải hàng (sau mới biết là vũ khí của Việt Minh) toàn tay giỏi võ, trận chiến bất lợi cho toán cướp Quán Chuột, đang khi giở ngón sở trường để tháo thân, bất ngờ đối thủ giao phong với cố tôi la lớn: “Có phải thầy Tử Kình không?”. Cố tôi giật mình đáp: “Chính là tại hạ!”. Kẻ kia liền hô anh em dừng tay, bảo: “Toàn huynh đệ trong nhà cả. Anh em hẳn đã nghe ta nói về tài văn võ của Tử Kình Quán Chuột chứ?”.
Máu liền ngừng chảy. Rượu được bày ra. Trước khi phân ngôi chủ khách, người lạ kia bảo: “Ta chính là con của đốc binh Lê Túc, bộ tướng của cụ Tán Thuật. Người anh em hẳn nhớ Lê Túc vùng thượng Lăng?”.
Tử Kình liền sụp lạy, nước mắt ướt đẫm vùng mặt chữ điền: “Thưa hiền huynh, hiền đệ thật là đắc tội”.
Vội đỡ viên đầu lĩnh Quán Chuột, con trai Lê Túc khoát tay mời mọi người ăn uống, vừa bảo nhỏ với Tử Kình.
“Hẳn là chú vẫn còn nhớ lời thề kết giao giữa hai dòng họ nhà ta của tổ tông. Chuyện chú giết tên chánh tổng ta đã nghe, vẫn định bụng khi nào thư giãn công việc sẽ trù tính. Nay gặp thế này là lòng trời thương thấu đến tâm nguyện trung trinh của ta và chú. Ta sẽ sớm báo cáo cấp trên, tuyển chú vào Việt Minh, theo dõi, nắm tình hình giặc Pháp vùng thượng Lăng, ý chú thế nào?”.
Tử Kình như người sống lại. Ngay đêm ấy cùng anh em xuôi về Bãi Sậy. Toán cướp Quán Chuột biến mất. Những con cháu các dũng binh miền thượng Lăng cầm gươm súng vì một hoài bão lớn lao.
Trời đã gần sáng. Người trẻ tuổi mắt đỏ hoe. Một cơn gió bấc ở đâu chợt làm chao đảo ngọn đèn. Ngọn đèn lịm đi tưởng tắt mất rồi lại gượng lên leo lét. Giọng lão chài như từ dưới sông dội lên.
- Ta chính là cháu nội của Tử Kình.
Người trẻ tuổi toàn thân khẽ rung lên. Dòng sông vẫn thản nhiên trôi nhè nhẹ nâng đỡ con thuyền bé nhỏ.
- Thưa chú - Chợt người trẻ tuổi lên tiếng - Có lẽ mọi thứ cứ để lại ở dòng sông Lăng này là hợp ý tiền nhân. Ý của các bậc liệt tổ dường như cũng là muốn cháu con truyền nhau cái tâm đời đời đánh giặc cứu nòi mở mang bờ cõi còn công trạng chẳng qua là thứ phù hoa mây nổi ở trên đầu nào có sá gì. Sáng mai cháu xin từ biệt chú, từ biệt sông Lăng dự Lễ Độc lập cùng đơn vị xong sẽ vào chiến trường. Chú ở lại nếu có một hậu duệ của chúng ta dù là nhánh Lê Văn hay ngài ẩn sĩ thảy đều truyền cho con cháu biết. Phương tiện nhận nhau vẫn là tiền mua loài chép đỏ dịp lễ Vu lan, cũng là dịp tằng tổ chúng ta mãn hạn án lưu đày về giời vùng thượng Lăng được thiên táng vẫn lưu truyền trong dân gian bấy lâu nay.
Trong đêm vắng, giữa lòng sông mờ mịt hơi sương hiện ra một người thanh mảnh rẽ khói sương đi ngược mạn thượng Lăng. Đến chân đền Lăng người ấy đứng rất lâu nhìn dòng sông, nhìn những nương dâu mùa đông trơ cành khẳng khiu gầy guộc trong giá lạnh. Gần sáng, bóng người lẫn hút phía chân trời.
Từ ấy không ai thấy lão chài bến Lăng đâu. Con thuyền cũ kỹ của lão cũng biến mất không một dấu vết. Sông Lăng rì rầm trôi thiêm thiếp bên hai bờ dâu xanh vùng đất cổ thập bát điền trang. Mấy năm sau, khi nước nhà thống nhất, tại chân ngôi đền Lăng tiêu thổ kháng chiến hoang tàn xưa được ngành văn hóa khảo sát và phục chế lại. Trong đoàn ấy có một thương binh từ chiến trường về. Số đá tảng do người thương binh chỉ đạo mò dưới sông lên vừa đủ để ghép lại ngôi đền cổ, có cả bậc đá xuống tận thềm sông. Hôm khánh thành cũng đúng vào ngày Tết Độc lập mùng hai tháng chín. Từ đấy, người thương binh trở thành ông thủ từ của đền Lăng đến bây giờ.
Truyện ngắn của PHÙNG VĂN KHAI