Lúc còn nằm trên giường, cô nhớ ra rằng năm nay bố đã bảy mươi lăm tuổi… và tự hỏi những ngày tháng đó đã đi về đâu? Cô cũng nhớ ra mẹ mình cũng sẽ bằng ấy tuổi trong hai tháng tới.

Mưa đổ ào trên mái bếp. Chỗ củi ướt mãi chẳng chịu bắt lửa. Có tiếng mẹ đập cửa bếp. Bà Daw Pan U bước vào, càu nhàu: “Sao mãi không mở cửa ra vậy? Mà chốt cửa bếp làm gì?”.

“Trời mưa to quá, con chẳng nghe thấy gì. Con chốt cửa để khói khỏi xộc lên nhà trên”.

Ma Thaw đặt nồi cơm lên bếp rồi quay ra vo gạo cho nồi cơm thứ hai. Bà Daw Pan U bảo: “Làm việc bên đó đi. Ta tự vo gạo được”. Ma Thaw không đáp, cứ tiếp tục vo. Bà Daw Pan U ngồi xuống nhóm thêm một bếp nữa bên cạnh Ma Thaw. Đặt nồi cơm bên cạnh bếp mới của mẹ, Ma Thaw rút một thanh củi đang cháy bên bếp mình đưa sang. Bà Daw Pan U ngẩng lên hỏi: “Làm cái quái gì vậy?”.

 “Củi còn ướt, sẽ rất lâu mới bén lửa… Con nghĩ làm thế này sẽ tốt hơn”.

Minh họa: Thái Hòa.

Bà Daw Pan U lắc lắc đầu: “Dừng ngay cái trò ngớ ngẩn đó lại. Đừng có mang cái thứ lửa đó sang bếp của ta. Ta tự làm. Mang về đi”.

“Mẹ! Con sợ sẽ bị muộn… Chỉ là nhóm bếp thôi mà… mẹ có dùng gì đâu?”.

Bà Daw Pan U tỏ ra mất kiên nhẫn: “Ta đã nói là không bao giờ sờ vào bất cứ một thứ gì của ông ấy. Khi ta nói cắt đứt với ai đó thì có nghĩa là cắt đứt tất cả mọi thứ liên quan… Ta không cần, mang ngay que củi đó về”.

Khi Ma Thaw lên mười, bếp ăn gia đình bị chia thành hai… một của bố và một của mẹ. Hai mươi lăm năm đi qua, Ma Thaw đã trở thành cô gái lỡ làng ba mươi lăm tuổi. Hai mươi lăm năm đó, bố mẹ cô chẳng nói lời nào với nhau. Họ sống chung một nhà, nhưng tài chính và nấu ăn thì riêng. Ma Thaw nấu ăn cho bố và giúp mẹ việc bếp núc.

Ông U Po Sein tới ngôi làng này chữa bệnh đậu mùa cho một bệnh nhân. Khi căn bệnh lan ra cả làng thì ông ở lại chữa bệnh và không rời đi nữa. Ông trở thành thầy thuốc của làng. Dân làng tìm cho ông một người thợ may khi đó đã bốn mươi tuổi làm vợ. Người đó là bà Daw Pan U. Cho tới khi lên ba, Ma Thaw vẫn không biết bố mình là U Po Sein… Đó là bởi ông thường đi chữa bệnh cho người làng khác và chỉ về nhà một lần trong khoảng ba hoặc sáu tháng.

Cuộc hôn nhân của người thầy thuốc độc thân lâu năm và người phụ nữ lớn tuổi không được xuôi chèo mát mái. Bà Daw Pan U cho rằng chồng mình ích kỷ, hay để bụng và hay mâu thuẫn. Ông U Po Sein thì cho rằng vợ mình nhiều chuyện, cứng đầu, bạc bẽo, chỉ chú ý tới bản thân và chẳng giúp ích được gì. Họ cứ giữ những điều chán nản về bạn đời của mình trong lòng như vậy cho đến khi Ma Thaw lên mười.

Hôm đó, ông U Po Sein về nhà sau khoảng ba tháng đi chữa bệnh ở một vùng quê. Vì ông đi liền một mạch ba tháng mới về nên bà Daw Pan U sinh giận. Ngay khi nhìn thấy chồng, bà đi thẳng vào phòng ngủ. Thấy vậy, ông U Po Sein vứt hết mọi thứ trước cửa, quát đủ to để từ trong phòng ngủ bà Daw Pan U cũng phải nghe thấy: “Này, chiếc đãy kia, này hai chiếc giỏ và những quả chuối kia, đi vào nhà đi chứ, đi đi chứ!”.

Ông ra lệnh cho chúng như thể chúng là những vật thể sống. Bà Daw Pan U biết rằng nếu bà còn chưa ra mang đồ vào nhà (theo truyền thống của người Myanmar, khi chồng đi xa về, vợ là người ra trước cửa nhà đón và mang đồ của chồng vào) thì ông U Po Sein sẽ còn đứng đó và quát gào châm biếm. Bà quyết xem ai sẽ là người chịu thua. Ông U Po Sein thì nhất quyết ra lệnh cho đồ vật của mình "tự đi vào nhà" .

Ma Thaw chạy vội từ trường về. Trong cơn hoảng sợ, con bé mới lên mười mang từng thứ vào nhà, nước mắt cứ thế trào lên. Chỉ đến lúc đó, ông U Po Sein mới ngồi xuống chiếc ghế tựa, nhắm mắt thiếp đi. Khi tỉnh dậy, ông với lấy chiếc sà-rông, đi thẳng vào trong làng. Khi quay lại, trên người ông là lỉnh kỉnh những nồi, niêu, soong, chảo, gạo, cá khô, ớt khô, hành và một chai dầu ăn.

Đó chính là ngày ông U Po Sein, với tất cả sự cay đắng của mình dành cho vợ, tuyên bố không còn là chồng của bà Daw Pan U nữa và lập bếp ăn riêng.

*        *        *

Nồi cơm của Ma Thaw đã sôi. Bà Daw Pan U vẫn đang chật vật nhóm bếp.

Ma Thaw bảo: “Mẹ à, bố hết đường thốt nốt rồi. Con có thể lấy vài viên ở cửa hàng của mẹ được không?”.

 “Không còn đường thốt nốt đâu, chỉ còn đường phên mía thôi”.

Trong khi Ma Thaw lấy vài phên đường đặt lên đĩa thì mẹ cô lẩm bẩm bực tức: “Ồ thế đấy, ta thì không đụng vào một cái gì của ông ấy cả, nhưng ông ấy thì lại có thể dùng đồ của ta. Khi con mới đẻ, ta thậm chí còn chưa hết cữ thì ông ấy đã đòi đưa cái vòng vàng ông ấy tặng ta. Kể từ đó, ta không bao giờ hỏi ông ấy một đồng nào nữa”.

Ma Thaw vội vã sắp mâm, kiểm tra xem còn sót thứ gì hay không và chỉ loáng thoáng nghe những lời ca thán của mẹ. Có lẽ cô đã quá quen với những lời cằn nhằn lặp đi lặp lại tới cả trăm lần của mẹ. Cô chán ngấy với cuộc sống cứ phải làm vùng đệm giữa bố và mẹ.

“Ông ấy ngồi đó, cao ngạo như ông chủ của gia đình nhưng chẳng muốn dùng tiền của mình vào việc gì; rồi lại còn chê trách ta nữa chứ, trong khi ta là người tự kiếm tiền nuôi thân. Chỉ vì lo cho con nên ta mới không bỏ cái nhà này mà đi”.

Ma Thaw chẳng buồn phí thời giờ nghe mẹ cằn nhằn nữa. Cô đặt mâm cúng lên đầu, đi lên điện thờ trên tầng. Nến đã thắp lên. Bố Ma Thaw đang ngồi lần tràng hạt, đợi đồ cúng.

Khi Ma Thaw đặt mâm lên điện, ông U Po Sein đứng dậy hỏi: “Đường mía ở đâu ra đây?”.

“Con lấy tạm đường từ cửa hàng của mẹ”.

Ông U Po Sein nhăn mặt: “Đừng bao giờ đưa bmất cứ thứ đồ nào của bà ấy vào mâm cúng của ta. Mang ngay đi. Con biết không? Trước khi con sinh, chúng ta phải tới ở nhà người bà con của bà ấy và họ đã bắt ta làm việc quần quật, không chút tiếc thương. Vậy mà bà ấy chẳng thấy cảm kích vì những điều ta đã phải trải qua. Thật là vô tình! Cũng chỉ vì ta lo cho con nên mới còn ở lại cái nhà này”.

Ma Thaw lại đi xuống tầng. Cô còn phải chuẩn bị thêm mâm cúng cho mẹ nữa. Trong bếp, bà Daw Pan U đang gạn nước cơm. Khi Ma Thaw đang gọt dứa cho bà Daw Pan U thì ông U Po Sein xuất hiện trước cửa, vẻ lo lắng: “Ma Thaw, có thấy lá số tử vi của ta đâu không?”.

Theo nghi lễ, ông U Po Sein sẽ đặt lá số của mình trước ảnh, trước khi cúng, nhưng giờ không tìm thấy lá số đâu cả. Ma Thaw bảo: “Bố vẫn thường để lá số của mình trong chiếc hộp bánh trên giường đó thôi”.

Ông U Po Sein sẵng giọng: “Không thấy ở đó… Hộp bánh cũng không ở đúng chỗ cũ. Có ai đó đã di chuyển nó khi ta vắng mặt”. Ma Thaw nhìn qua phía mẹ.

Bà Daw Pan U quay ra nói với Ma Thaw, mắt cũng chỉ nhìn Ma Thaw: “Có hôm trời mưa to, không có ai ở nhà nên ta phải lên đóng cửa sổ. Mái nhà dột nên ta phải di chuyển mấy thứ cho đỡ ướt”.

Ma Thaw quay về phía bố.

Ông U Po Sein nói với Ma Thaw: “Thật sao con gái? Hết sức lộn xộn… Giờ đồ của ta không còn ở đúng chỗ của chúng nữa”.

Bà Daw Pan U nói với Ma Thaw: “Ai mà thèm lấy thứ đó làm gì chứ? Hôm ông Ba Win mang trả thùng dầu từ tu viện, ta thấy có người nói rằng sẽ quang dầu cho lá số tử vi?”.

Ma Thaw lại quay sang bố.

“Thật là thảm họa. Ta chưa bao giờ đưa lá số của ta cho Ba Win. Ta không thích ai đụng vào đồ của ta hết”.

 “Có gì là thảm họa? Nếu nó không ở chỗ của nó thì chắc chắn là Ba Win đã mang nó đi rồi”.

Ma Thaw luôn là khâu trung gian khi bố mẹ có chuyện cãi cọ. Cô thường phải làm điều gì đó để hạ nhiệt: “Có lẽ ông Ba Win đã lên tầng và tự lấy lá số đi rồi. Để con kiểm tra lại giá sách dưới này”.

Ma Thaw đi lên nhà. Lá số tử vi đang nằm trên giá sách với một lớp quang dầu mới. Ông U Po Sein cầm tấm lá số đi thẳng lên tầng. Khi cô bước xuống bếp, bà Daw Pan U nói ngay: “Ơn giời ông ấy tìm thấy nó. Nếu không ông ấy sẽ rỉa rói ta chẳng biết đến khi nào?”.

Tiếng kẻng ba góc vang lên từ tầng trên. Bố cô bắt đầu cúng: “Con lạy bốn phương trời, mười phương chư Phật, người đem ánh sáng soi rọi cõi vô minh…”.

Lời khấn buổi ban mai như vượt lên trên cõi phàm. Lòng tôn kính dâng lên trong Ma Thaw. Một lúc sau, khi Ma Thaw thắp nến ở điện thờ dưới nhà cho mẹ thì trên tầng ông U Po Sein kết thúc lễ cúng bằng lời cầu an: “Cầu mong ơn trên chứng giám, loại bỏ thù hằn, ganh ghét. Xin cho mọi sinh linh được an bình, không còn sợ hãi. Cầu mong cho mọi người được tốt lành, thịnh vượng”.

Nghe những lời khấn cuối cùng của bố, trong Ma Thaw đột nhiên dâng lên một nỗi buồn, nức nở trong lòng, khiến cô muốn khóc.

Bà Daw Pan U đã chuẩn bị xong mâm cúng, gõ kẻng ba góc và bắt đầu khấn khứa: “Con lạy đức Phật mười phương, cầu xin cho con được phúc phần, thoát khỏi trầm luân. Con xin đức Phật mười phương đoái thương, đồng lai hâm hưởng lễ mọn tâm thành…”.

Ma Thaw quay xuống bếp, trong lòng vẫn còn nức nở. Những lời khấn của mẹ khiến Ma Thaw chỉ muốn buông xuôi, vào tu viện, bỏ lại cuộc đời khốn khổ bế tắc phía sau. Cơn nức nở cuộn lên, bít chặt lấy cổ.

Đúng lúc đó, bà Daw Pan U kết thúc lễ cúng bằng lời khấn: “Con xin ơn trên cho thân xác, tinh thần này hết nỗi hiểm nguy, không còn lo lắng, khổ đau. Mong cho mọi sinh linh trên thế gian đều được khỏe mạnh, thoát nỗi muộn phiền”.

Lời khấn cuối cùng của mẹ như xuyên buốt tim Ma Thaw. Không kìm được nữa, nước mắt cô chảy dài hai bên má, từng giọt từng giọt rơi. Cô ngờ rằng lời khấn của bố không có chỗ dành cho mẹ mình. Cô cũng không dám chắc rằng bố mình có phần trong lời cầu an của mẹ.  

Truyện ngắn của Journal Kyaw Ma Ma Lay (Myanmar) ƯU ĐÀM (dịch)