1. Đó là ngày tôi không bao giờ quên, dẫu giờ đã có thâm niên khoác “áo vằn cánh sóng”.

Ngày 8-3 của 31 năm trước, tôi nhập ngũ với nguyện vọng trở thành bộ đội hải quân và được ra quần đảo Trường Sa công tác. 18 tuổi phơi phới sức trai với khát khao cống hiến tuổi xuân cho Tổ quốc. Ngày đó, trong gần 40 thanh niên của xã tòng quân, có 7 người vào hải quân, nhưng mình tôi xung phong đi đảo bởi hai lý do, thứ nhất, tiếp nối truyền thống gia đình; thứ hai, tôi yêu bộ đội hải quân qua bài thơ “Chú hải quân” của nữ sĩ Vân Đài. Những vần thơ ngấm vào máu thịt: Chú bộ đội hải quân/ Đứng canh ngày, canh đêm/ Ngoài xa vời hải đảo/ Kìa! Bóng chú hải quân/ Dưới trời xanh trứng sáo/ Mặc nắng mưa gió bão/ Cây súng chú chắc tay/ Quân thù mà ló mặt/ Biển lớn sẽ vùi thây/ Em mong ngày khôn lớn/ Sẽ vượt sóng ra khơi/ Cũng cầm chắc tay súng/ Giữ lấy biển lấy trời.

Sáng ngày lên đường nhập ngũ, trời rét căm căm. Mẹ tôi gọi: “Dậy đi. Khoai chín rồi, ăn còn lên đường nữa”. Tôi bò dậy nhìn ra khoảng sân, sương phủ mịt mờ. Nhìn vào mắt mẹ, tôi hiểu cả đêm mẹ không ngủ.

Chào mẹ, con lên đường bảo vệ Tổ quốc.

Mâm cơm dọn ra trên nền đất dưới mái nhà lợp bổi. Bữa cơm liên hoan khoai nhiều hơn gạo. Mẹ bảo: “Nay con ăn thật no, đường xa lắm đấy! Đến nơi nhớ viết thư về cho mẹ”. Rồi mẹ lấy từ túi áo nâu đưa cho tôi ba nghìn đồng tiền cũ: “Con cầm lấy, cũng có lúc dùng đến nó”, mẹ nghẹn lời, nước mắt rớm mi. Ba nghìn đồng lẻ đó có một nghìn đồng của bác hàng xóm cho, mẹ góp lại. Tôi bước đi trong buổi chia tay đầy cảm xúc ấy.

2. Tiểu đoàn 474, Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 147 (Quân chủng Hải quân) đóng ở Quảng Ninh là nơi đầu tiên tôi công tác khi nhập ngũ. Tháng 3 ở vùng Đông Bắc, cái nắng hanh hao trên thao trường cũng không làm tôi nản chí.

Những năm 1989-1990, Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 147 “khét tiếng” gian khổ và được gọi là nơi “luộc quân” bởi thời tiết khắc nghiệt. Địa danh gắn với sự khắc nghiệt đó là “rét Khe Giá”, “nắng Hoành Bồ”. Cánh lính “tò te” chúng tôi ngày “dãi nắng” trên thao trường, đêm “đánh địch” ngoài sông Chanh. Những bài tập đầu tiên về “Đánh địch đổ bộ bãi sú sông Chanh”, rồi “ba lô ướt sũng, trán đổ mồ hôi” đã tôi luyện tôi thành chiến sĩ kiên cường. Vẫn nhớ như in hàng chục lần cả tiểu đội thức trưa gấp chăn vì “can tội” chăn “vuông góc” thì gấp thành “hình thang”, nửa đêm gà gáy “chân xỏ giày sẵn, vai khoác ba lô cát” chạy 3km đường đồi Khe Giá. Biết bao lần tiểu đội giữa trưa nắng ngồi trên đỉnh đồi miên man nhớ quê nhà hương cà bếp lửa… Tất cả gian khổ của thời mới nhập ngũ đã rèn tôi trưởng thành và trở thành “ký ức hoa lửa” không thể nào quên.

3. Sau 5 năm đèn sách ở Học viện Chính trị-Quân sự, tôi tốt nghiệp với quân hàm trung úy và tình nguyện xin ra đảo Sơn Ca công tác. Khi ấy, đảo Sơn Ca khá hoang sơ, đời sống của cán bộ, chiến sĩ còn khó khăn, gian khổ bội phần. Mặc dù được coi là “đảo sầm uất” của quần đảo Trường Sa, nhưng nước ngọt vẫn phải chia nhau từng ca, “chất xơ” là “rau xanh phơi khô đóng hộp” gửi ra từ đất liền. Thời tiết ở đảo giữa trưa lên tới 40 độ C.

Chúng tôi “trằn mình” giữa cái nắng cháy da cháy thịt, chia nhau từng hớp nước ngọt giữa tận cùng cơn khát. Trường Sa vào những năm 1990-1995 chưa có điện thoại, phương tiện liên lạc giữa đất liền và hải đảo là thư viết tay. Ngày huấn luyện, chiều củng cố đảo, đêm viết thư về quê nhà dưới ánh trăng ngoài triền cát. Những chiều tà, ca gác đêm thâu kéo theo nỗi nhớ nhà miên man. Gian khổ không thể nói hết bằng lời, dẫu vậy, tất cả đều quyết tâm và một tình yêu không điều kiện: Trường Sa. Bởi trong suy nghĩ của chúng tôi, đó là trái tim biển của Tổ quốc và nếu không có những người lính biển, ai là người bảo vệ Trường Sa?! Ai giữ cột mốc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc?

Sau 3 năm “ăn sóng, nói gió” ở đảo Sơn Ca, tôi chuyển về nhà giàn DK1-“cột mốc sống” trên thềm lục địa phía Nam. Bước vào cuộc sống mới giữa ngàn khơi Tổ quốc, tôi hiểu được giá trị bảo vệ biển, đảo của những người lính “đầu đội trời, chân đạp sóng”.

Để có quần đảo trường tồn nơi tiền tiêu Tổ quốc, để những “cột mốc sống” mãi là “dáng đứng Việt Nam” trên thềm lục địa, nhiều cán bộ, chiến sĩ nằm lại biển xanh. Có liệt sĩ xương cốt vĩnh viễn hóa thành san hô, hòa vào lòng biển thành những bản tình ca bất tử. Để mỗi lần hàng triệu lượt người Việt ra Trường Sa, ra nhà giàn DK1 lại ngân nga lời bài hát “Khúc quân ca Trường Sa”: “Ngày qua ngày, đêm qua đêm, chúng tôi đến đây gìn giữ quê hương, biển này là của ta, đảo này là của ta, Trường Sa. Dù phong ba, dù bão tố, dù gian khổ ta vẫn vượt qua... Đem chí trai, giữ vững chủ quyền Tổ quốc Việt Nam ta…”.

 4. Mùa Xuân 2020, hàng vạn nam thanh, nữ tú theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc lên đường nhập ngũ. Có người ra đi theo tiếng gọi từ trái tim mình, có thanh niên đi để tiếp bước cha anh, có chàng trai đi theo lời biển gọi... Mỗi người đến một miền quê, dải đất khác nhau, song đều có chung mục tiêu, lý tưởng là cống hiến tuổi xanh cho Tổ quốc, trong đó có nhiều tân binh thiết tha ra Trường Sa để hiến sức mình.

Cũng như tôi và bao “lính già” ngày ấy, những chiến sĩ mới bây giờ đang tiếp bước cha anh. Ở biên thùy hay nơi đảo xa, ở thành thị hay nông thôn, vùng núi hẻo lánh… họ khoác áo biển khơi, luyện rèn trong nắng lửa, mưa rào, tất cả vì Trường Sa thiêng liêng, vì bình yên của chủ quyền biển, đảo. Cũng như “lính đỏ”, “lính xanh”, bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng của “lính hải quân”, chỉ khác, nơi các anh bảo vệ, chiến đấu là tuyến đầu sóng gió, khắc nghiệt về thời tiết, cách xa về quãng đường, gian lao và khó nhọc.

Ai bảo bộ đội Trường Sa bây giờ sướng? Ai bảo công tác ở nhà giàn DK1 bây giờ không gian khổ? Cùng với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, quân đội và đồng bào cả nước, Trường Sa giờ đây đã tươm tất hơn nhiều nhưng vẫn còn đó không ít thiếu thốn, vẫn còn đó không ít thử thách.

Cuộc đời đẹp nhất của tuổi trẻ là trên trận tuyến đánh quân thù, cuộc đời đẹp nhất của thanh niên thời bình lặng im tiếng súng là cống hiến cho Tổ quốc, mà Trường Sa, nhà giàn DK1 là nơi để thỏa sức mình. Nhiệm vụ các anh đang thực hiện, công việc đang làm, tuổi xuân các anh đang thầm lặng hiến dâng nơi tiền tiêu Tổ quốc với một tình yêu bất tử mang tên: Trường Sa.

Bài và ảnh: MAI VĂN THẮNG