Ông ghi dấu ấn đậm nét ở thể loại thơ trào phúng, đến mức sau khi ông qua đời (năm 1976) vẫn chưa có tài thơ nào khỏa lấp ở mảng thơ tưởng dễ mà khó này.

Tên thật của nhà thơ Tú Mỡ là Hồ Trọng Hiếu, nguyên do có bút danh này vì ông muốn kế tục bậc thầy Tú Xương, độc giả nghe tên tác giả biết ngay chuyên trị dòng thơ trào phúng. Tú Mỡ đúng là đã kế nghiệp Tú Xương xuất sắc, phong cách thơ trào phúng của ông vừa thể hiện sự uyên bác, lại rất dí dỏm theo phong thái bình dân bởi ông quan niệm văn chương phải để cho mọi người thưởng thức chứ không nên nhắm vào đối tượng đặc tuyển. Văn học dân gian tồn tại thông qua hình thức truyền khẩu, không phải hiện hữu giấy trắng mực đen hay trên văn bia chuông tượng như văn học viết. Vì vậy, nhiều thể loại văn chương, nhiều cách diễn đạt được các tác giả văn học viết cho là không chính thống, không nghiêm túc như thơ trào phúng tồn tại lâu dài. Ví như như bài ca dao khuyết danh về sinh hoạt gia đình này: “Đương khi bếp tắt cơm sôi/ Con ngồi khóc đói, chồng đòi tòm tem/ Bây giờ bếp đã cháy lên/ Cơm đà sắp chín, tòm tem thì tòm”. Bài thơ vui vẻ, hóm hỉnh có tác dụng giảm bớt lo toan, vất vả của tầng lớp lao động bình dân vốn không có nhiều học thức hàn lâm.

Minh họa:Đỗ Thị Huyền

Theo hồi ức của các bạn văn, Tú Mỡ có tính cách vui vẻ, nhân hậu, dường như sinh ra để viết thơ trào phúng. Ông sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, trong thời buổi văn hóa, tư tưởng phương Tây đã bám rễ ở nước ta. Chính vì cởi mở môi trường, tư tưởng, chữ quốc ngữ được công nhận, báo chí phát triển,… cho nên văn học thời kỳ này khoảng cách giữa văn học chính thống và phi chính thống như thời trung đại không còn quá xa. Ông làm thơ từ những năm hai mươi tuổi nhưng dấu mốc quan trọng là gia nhập Tự lực văn đoàn năm 1932. Tự lực văn đoàn với hai tờ báo Phong hóa và Ngày nay chủ trương dùng văn học, nghệ thuật cải tạo xã hội theo hướng Âu hóa. Một trong những cách thức để tuyên truyền tư tưởng văn minh hiện đại, chống lại sự bảo thủ là dùng tiếng cười đả kích. Tú Mỡ được cử phụ trách mục “Giòng nước ngược” trên tờ báo Phong hóa, không khác nào hạt giống gieo trên mảnh đất tốt, cứ phát triển lên mãi.

Trong buổi giao thời, ngòi bút trào phúng Tú Mỡ tung hoành đả kích, châm biếm thói hư tật xấu xưa cũ: “Lên núi tu tiên được mấy ngày/ Tu chưa đắc đạo, đói nhăn thây!/ Thôi đành lóp ngóp quay về tục/ Tu hũ, tu vò, chuếnh choáng say” (“Tu tiên”); phê phán chế độ thống trị thực dân phong kiến thối nát: “Xem cuộc mua danh thực dữ dội/ Người hay, kẻ dở, trò thơm thối.../ Quốc dân được lợi cuộc mua vui/ Chẳng phải mất tiền xem hát bội...” (“Bầu cử”); chế giễu đám người trưởng giả học làm sang: “Đầu năm đã bị rông rồi/ Chắc là văn viết ngược đời quanh năm!” (“Khai bút rông”). Điều đáng nói nhất là ông tự mang bản thân ra giễu nhại: “Bởi tính ngang phè như chánh bứa/ Già đời chẳng được cái mề đay” (“Tự thuật”). Nhờ đề tài đả kích, châm biếm rộng khắp, phong phú hình thức, Tú Mỡ nhanh chóng nổi tiếng. Ba tập thơ “Giòng nước ngược” in trước năm 1945 đều là những tác phẩm bán chạy, được công chúng yêu thích.

Công việc làm công chức, thú vui làm thơ của Tú Mỡ trong bối cảnh nước nhà chưa được độc lập vẫn để lại trong ông nỗi niềm trăn trở. Ngay từ bài thơ khôi hài đầu tiên “Bốn cái mong của thầy Phán”, ông đã kín đáo nói lên tấm lòng yêu nước, thương dân của mình: “Hãy tạm thời nay mong thế thế/ Còn bao mong nữa xếp bên lòng”. Đến khi nước nhà độc lập, rồi kinh qua hai cuộc kháng chiến, Tú Mỡ nhiệt thành tham gia sự nghiệp cách mạng. Lúc này, ông sử dụng bút danh “Bút chiến đấu” bởi như ông tự thuật: “Công cuộc kháng chiến là công cuộc nghiêm chỉnh, mình dùng bút danh để đánh địch cũng là việc làm nghiêm chỉnh, cho nên tôi không muốn dùng bút danh cũ là Tú Mỡ”. Bút lực của Tú Mỡ thời kỳ này càng sung sức với nhiều tập thơ chất lượng: “Nụ cười kháng chiến”, “Nụ cười chính nghĩa”, “Đòn bút”…

Thời kỳ này, đối tượng đả kích của Tú Mỡ là thực dân và đế quốc xâm lược đều được ông “tặng” những bài thơ đả kích sâu cay: “Bị dìm mùa ướt, nướng mùa khô/ Giặc Mỹ lồng lên tựa chó rồ/ Quân kéo vào đông càng chết lắm/ Tướng liều đánh lớn lại thua to” (“Tình cảnh khốn cùng của giặc Mỹ”, năm 1966). Bên cạnh làm thơ ông còn tham gia dịch thuật, viết kịch bản chèo... để tuyên truyền chủ trương, đường lối cách mạng, bởi ông quan niệm: “Văn thơ có gồm đủ mặt, cả về nội dung lẫn hình thức, mới đáp ứng được sở thích của mọi người, nhưng tác giả phải đứng vững trên một lập trường: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, trọng chính nghĩa, trọng nhân đạo”.

Làm thơ châm biếm, đả kích không có nghĩa ông là người “ác khẩu” mà nhiều bài thơ của ông gần gũi, ca ngợi nét đẹp văn hóa truyền thống, chuyện tử tế trong đời sống bình thường: “Ông phải nghĩ/ Đáp cho thông/ Cháu với ông/ Hai thế hệ/ Già hợp trẻ/ Trẻ hợp già/ Vui cửa nhà/ Thật hạnh phúc!” (“Ông và cháu”).

Nhà thơ Tú Mỡ đã được Nhà nước truy tặng giải thưởng cao quý nhất-Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2 (năm 2000). Đó là sự ghi nhận của Đảng, Nhà nước đối với nhà thơ trọn đời dùng ngòi bút chiến đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Riêng với nhà thơ Tú Mỡ, lúc sinh thời, ông quan niệm làm thơ văn không phải để được giải thưởng, danh vị to lớn; ông luôn quan niệm: “Danh vị cao quý nhất của người cầm bút là “nhà văn, nhà thơ của nhân dân”. Chừng đó thôi, cũng có thể xem ông là tấm gương sáng để những người cầm bút noi theo.

VIỆT PHONG