Nhà thơ trong tư cách chủ thể là một cái tôi cực đoan. Nói đúng hơn thì cái tôi cực đoan chính là hình dung căn bản về thi sĩ. Ai đó có thể biện minh về những sứ mệnh bên ngoài của nhà thơ và thơ, nhưng trong thực tế, thi sĩ chỉ phô bày thế giới của cái tôi. Hiện diện thi ca đồng nghĩa với sự sống của cá nhân trong chiều kích đầy đủ nhất, xác đáng nhất. Thực tại “khách quan” chỉ là điểm gợi dẫn, là khởi đầu cho quá trình kiến tạo một thực tại khác - thực tại thi ca. Toàn bộ thế giới mà ta gọi là khách quan được thi sĩ cảm nhận, tích lũy trong tâm tư, dồn nén trong xúc cảm và ý nghĩ, chờ một khoảnh khắc nào nó lóe lên thành tứ thơ. Khi đó, thực tại thi ca mới bắt đầu được nhen nhóm. Tuy nhiên, không phải cứ mô tả lại thực tại khách quan hay biểu đạt một cách hồn nhiên thực tại bên trong của chủ thể là chúng ta có thơ. Điều quan trọng làm nên hình thức thể loại, chính là phương thức thể hiện, là sự “lựa chọn” (R.Jakobson) để biểu đạt trạng thái cực đỉnh ấy trong cơ cấu tâm lý-tình cảm của chủ thể sáng tạo. Ý muốn biểu tỏ trạng thái bên trong của cái tôi bằng cách nào cho chúng ta thể loại đó. Với thơ, nhịp điệu, nhạc tính, thi ảnh và lớp ngôn từ giàu sức biểu cảm chính là những yếu tố mang tính đặc trưng của thể loại. Vần, khổ trong thơ có thể không thực sự quan trọng, nhưng nếu không có nhịp điệu, nhạc tính, thi ảnh và ngôn từ gợi cảm sẽ không có thơ, không phải là thơ. Do vậy, xét về mặt nguyên lý, “lựa chọn” hình thức phô bày là thao tác chủ yếu của nghệ thuật, quy định đến thể loại và qua đó hình thành một chủ thể sáng tạo. Ví như, cũng là cảm thức cô đơn của cái tôi Thơ mới, Xuân Diệu bày tỏ: Ta là một, là riêng, là thứ nhất/ Không có chi bè bạn nổi cùng ta (Hy Mã Lạp Sơn);Huy Cận thì: Một chiếc linh hồn nhỏ/ Mang mang thiên cổ sầu (Ê chề); Hàn Mặc Tử lại đớn đau ghê rợn: Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng/ Một vũng cô liêu cũ vạn đời (Cô liêu),…

Kẻ là ngọn cô sơn, người là một vũng cô liêu, một linh hồn đơn chiếc, nhưng tất thảy đều cô độc, lẻ loi. Sự lựa chọn nhịp điệu, hình ảnh và lớp ngôn từ biểu cảm ấy đã thể hiện một cách đắc địa trạng thái tinh thần của chủ thể-cái tôi cô đơn, u buồn, lạc lõng trong Thơ mới. Tuy vậy, giữa những cái tôi ấy vẫn giăng ra muôn vàn khoảng cách. Xuân Diệu không chấp nhận nổi Hàn Mặc Tử, Hoài Thanh-đem hồn ta để hiểu hồn người, nhưng cũng không lý giải nổi Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Đinh Hùng... Sáng tạo của thi sĩ là quá trình đi tìm những nguồn mỹ cảm, khoái lạc từ sâu trong bản thể. Bởi vậy, càng đi họ càng rời xa những điều mắt thấy tai nghe xung quanh. Cách ngăn giữa những cái tôi vì thế cứ sâu rộng mãi. Mọi cách nói tỏ ra tri âm dường như đều hàm chứa những thỏa hiệp về/trên một bình diện, một khía cạnh nào đó của mỗi cá nhân, mỗi tác phẩm nghệ thuật. Thi sĩ đi tìm mình trong thăm thẳm riêng tư, cất lời từ những hình dung của cái tôi không chấp nhận sự cũ kỹ, vay mượn hay sao chép. Có lẽ, trong một mô tả của mình, Phan Ngọc đã cảm nhận được ngăn cách ấy khi ông cho rằng: Thơ là hệ thống ngôn từ được sắp xếp một cách quái đản. Cái quái đản ấy thực ra là cảm nhận của kẻ khác, còn với thi sĩ, cái gì nó nói cũng đều có cả (ý Chế Lan Viên).

Nhà phê bình trước hết là một người đọc thông thường, sau nữa mới là một người đọc trên cấp độ tinh anh-chuyên nghiệp. Nghĩa là, ở giữa nhà phê bình với các cá nhân khác cũng đầy khoảng cách. Trong quan hệ với nhà thơ, nhà phê bình giống như một thám tử. Từ tham vọng gặp gỡ và giao tiếp-trong tư cách kẻ khác, nhà phê bình bắt đầu hành trình của mình. Trong cách hình dung thông thường về phê bình, người ta hiểu công việc này như là quá trình đọc và đưa ra những thẩm bình, phân tích, đánh giá về các giá trị của tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, đó dường như mới chỉ là giai đoạn đầu hoặc chỉ là một khía cạnh của công việc phê bình. Trong nghĩa này, nhà phê bình là một người đọc bậc cao, với nhiệm vụ đánh giá, thẩm định chất lượng thẩm mỹ, nghệ thuật, tư tưởng trong các tác phẩm, từ đó sắp xếp, hình thành trật tự giá trị của các tác phẩm nghệ thuật. Nếu chỉ như thế thì đương nhiên, sẽ hình thành kiểu phê bình tri âm, nghĩa là thấu hiểu được thế giới trữ tình của thi sĩ đến ngọn ngành. Tuy nhiên, hành trình của nhà phê bình về thực chất là hành trình đưa hai đối tượng (nhà phê bình và thi sĩ) ngày càng xa nhau. Tại sao vậy? Phê bình trong ý nghĩa sâu xa nhất của hành vi này cũng là quá trình tìm kiếm chính mình. Thi sĩ và thi phẩm chỉ là đối tượng của phê bình ở tầng thứ nhất. Kể từ lần gặp gỡ đó, thi sĩ, thi phẩm như một cảm hứng, một nguyên cớ, gợi dẫn, thách thức, thôi thúc nhà phê bình dấn bước, đi tìm khuôn mặt của mình. Trương Chính được biết đến từ tác phẩm Dưới mắt tôi đầy táo bạo đến mức ngông nghênh, Hoài Thanh qua Thi nhân Việt Nam trở thành một tượng đài của phê bình ấn tượng Việt Nam, Lê Tuyên tiêu biểu cho phê bình hiện tượng luận, Đỗ Long Vân tiêu biểu cho phê bình cấu trúc luận… Đến đây, chúng ta thấy rằng, ý định gặp gỡ và giao tiếp với thi sĩ dẫn nhà phê bình đi xa hơn (từ tham vọng của chính anh ta) trên hành trình tìm kiếm diện mạo của mình. Điều này càng được cổ vũ mạnh mẽ bởi lý thuyết tiếp nhận với vai trò của người đọc. Như thế, phê bình làm hiện lên chân dung nhà phê bình bên cạnh (hoặc) đằng sau chân dung nghệ thuật của thi sĩ.

Trong hình dung sâu xa nhất, cách ngăn ngày một sâu hơn, rộng hơn trên mỗi bước chân của thi sĩ và nhà phê bình. Có thể, một lần nào đó họ gặp nhau, nhưng ý thức về sự tồn tại lập tức gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, khiến cho hai chủ thể lập tức phải vội vã lên đường. Nhà phê bình sau khi gặp gỡ với thi sĩ, cần phải mở rộng những hành trình khác để nối kết vào văn hóa, thẩm mỹ, lịch sử, khoa học, mỹ học của cá nhân, cộng đồng, thời đại, quốc gia, nhân loại… Hành trình đó rất xa, xa hơn những chạm gặp ban đầu, khiến cho cái duyên sơ khởi chỉ còn như là một tiếng vọng qua mênh mông vực thẳm.

 

Tiến sĩ NGUYỄN THANH TÂM